Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Duy Thức Tam Thập Tụng Thích Luận

05 Tháng Mười Hai 201808:29(Xem: 6822)
Duy Thức Tam Thập Tụng Thích Luận

DUY THỨC TAM THẬP TỤNG THÍCH LUẬN
PHẠN BẢN TÂN DỊCH

BẢN VIỆT DỊCH ĐẦU TIÊN TỪ  SANSKRIT

ĀCĀRYA STHIRAMATI
(A-XÀ-LÊ AN HUỆ tạo)

Nguyên bản Phạn ngữTRIṂŚIKĀVIJÑAPTIBHĀṢYAṂ

Tạng dịch: SUM-CU-PAḤI BŚAD-PA

PHẠN-TẠNG NGUYÊN ĐIỂN ĐỐI CHIẾU DỊCH

Phước Nguyên


Duy Thức Tam Thập Tụng Thích Luận

 

 TỰA

A-xà-lê An Huệ tạo

Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh nhận thức không điên đảo đối với nhân vô ngãpháp vô ngã. Trong đây, do nhận thức không điên đảo về nhân pháp vô ngã, mà phiền não chướngsở tri chướng được đoạn trừ. Vì các phiền não như vậy: tham các thứ, sinh khởi do ngã kiến. Chứng ngộ nhân vô ngã, chính là đã đối trị Tát-ca-da-kiến, đoạn trừ kiến này[1], tức có thể đoạn trừ tất cả phiền não. Pháp vô ngã đối trị sở tri chướng, tức đoạn trừ sở tri chướng. Lại nữa, vì phiền nãosở tri chướng đã bị đoạn trừ, nên chứng đắc giải thoát, thành tựu nhất thiết trí cảnh. Do phiền não trùm kín sự đắc giải thoát các chướng, nên nếu đoạn trừ chướng này, tức chứng giải thoát. Cho đến đối với sở tri chướng, nghĩa là ở trong tất cả sở tri cản ngại chánh trí hiện khởi, tức là một loại bất nhiễm ô vô tri, khi cái này bị đoạn trừ, thì chánh trí phổ cập nơi hành tướng của nhất thiết sở tri, chuyển khởi không bị chướng ngại, không bị trùm kín. Do đây, đắc thành nhất thiết trí cảnh

Lại nữa, vì để khai thị nhân pháp vô ngã cho những ai mê mờ Duy tâm, nhầm lẫn chấp ngãchấp pháp, khiến cho tuần tự ngộ nhập Duy thức quả, do đó luận này được viết.

Hoặc chấp đối tượng nhận thức cũng tồn tại thực chất như chủ thể nhận thức; hoặc chấp chủ thể nhận thức như đối tượng nhận thức là một dạng: theo nghĩa thường nghiệm tuy tồn tại thật chất, nhưng theo nghĩa siêu nghiệm, thảy đều không tồn tại thực chất. Vì để bác bỏ những chấp trước cực đoan ấy. Do đó,  luận này được viết ra.

 

CHƯƠNG I.  NGÃ VÀ PHÁP

I. TỔNG THUYẾT NGÃ PHÁP

Sự giả thác như là ngã và pháp

Tiến hành thật sự đa dạng. //1ab/[2]

Nên nói hoàn chỉnh là ở trong thế gianThánh giáo.

Nó tiến hành y trên sự biến thái của thức //1c/[3]

Ngãvàpháp được giả thác nàylà do các từ tố liên kết lại. Các từ ngã và pháp được dùng như những từ mô tả, đó gọi là giả thác về ngã và pháp. Hơn thế nữa, nhất định ngã chỉ là ước lệ, pháp cũng chỉ là ước lệ.

Nói là “đa dạng”[4]: tức có đa dạng chủng loại, như ngã, mạng giả, sinh giả, nho đồng, tác giả v.v… đó gọi là giả thác về ngã. Hoặc uẩn, xứ, giới, sắc, thọ, tưởng, hành, thức v.v.. đó gọi là giả thác về pháp.

Hai loại giả thác đều do tính biến thái của thức, chứ không phải ngã và pháp là tự thể thực hữu. Tại sao? Vì lìa ngoài sự biến thái của thức thì không tồn tại ngã và pháp.

Biến thái[5], là trạng thái biến dị, khi một quả tự đắc đồng thời với sát-na diệt của nhân, và khác biệt một cách đặc trưng[6] với sát na đó của nhân, gọi là biến thái.

Vào sát-na đó, do sự xử lý toàn bộ các ấn tượng của cấu trúc ngôn ngữ như ngã v.v.. và và do sự xử lý toàn bộ ấn tượng của cấu trúc ngôn ngữ như sắc v.v.. mà cấu trúc ngôn ngữ sinh khởi như sự tự tri về chính nó và như sự tự tri về đối tượng từ từ a-lại-da thức.

Sự tự tri này về chính nó và sự tự tri này về đối tượng, do cấu trúc ngôn ngữ, có tác dụng của một sự thật khách quan giống như sự mô tả về ngã, v.v... và giống như sự mô tả về pháp như sắc v.v… trong sự thường hằng của nó cho dù không có bất kỳ ngã hay pháp nào như là ngoại cảnh thực hữu, giống như sự mô tả mao luân[7]của một người mắc bệnh bạch chướng nhãn.

Trong đây, các loại hữu tình từ thời vô thủy chấp lấy ảnh tợ ngã, ảnh tợ sắc các thứ làm đối tượng, do cấu trúc mà chúng xuất hiện như là ngoại cảnh thực hữu, cho đến tiến hành giả thiết ngã, giả thiết ngã. Nhưng thực tế ngã và pháp đều không phải ngoại cảnh thực hữu. Như người nhặm mắt thấy mao luân.

Giả thác, cái mà ở nơi nào không tồn tại thì ở nơi đó nó được giả thác. Như con bò được giả thác nơi người ngu. 

Như thế trong và ngoài tự tính của thức đều không tồn tại ngã và pháp. Ngã và pháp hết thảy chỉ là cái được cấu trúc toàn diện. Trong thắng nghĩa nó cũng được nói là hoàn toàn không tồn tại. Do đây, các vị Nhất biên luận chủ trương: “Đối tượng nhận thức cũng như chủ thể nhận thức là một dạng thật hữu”, điều này không thể chấp nhận.

Nhưng mà nếu khôngsở y, giả thác cũng không thể tồn tại. Do đó, biến thái của thức nhất định tác thành một loại cơ sở thực chất hướng đến thông tin; tức do sự biến thái này làm sở y mà ngã giả thác, pháp giả thác được sản sinh.

Do đây, nếu chủ trương: “Chủ thể nhận thức cũng như đối tượng nhận thức chỉ tồn tại trong quy ước thế tục; nhưng tại thắng nghĩa thì không tồn tại”, quan điểm này phi lý. Bởi vì trong tập quán thế tục phạm vào lỗi vô thể[8]. Nếu khôngsở thủ, tức tập quán thế tục không thể tương thích[9].

Vậy thì, hành tướng hai dạng nhất biên luận kể trên, do đều phi lý, y theo ngôn thuyết của A-xà-lê nên phế bỏ chúng.

Như thế, vì tất cả đối tượng nhận thức đều là trạng thái của cái phân bố cấu trúc do tính thể tự hữu[10]; nói từ cơ sở thực tế, chúng thảy đều không tồn tại, nhưng thức do là duyên sinh pháp tính, nên khả dĩ nói là thật thể tồn tại.

Lại nữa, đối với thức từ duyên sinh pháp tính, nó đã được giải bằng từ biến thái của thứcở trên. 

Nói là ngoại cảnh không tồn tại, nhưng thức là cảnh của hành tướng đã sinh khởi, điều này có thể giải thích như thế nào?

Kì thật nói là ngoại cảnh, tức là cái có thể dẫn sinh tự thể hiện thức, cái đó được quan niệm như là điều kiện sở duyên của thức. Thế nhưng, không chỉ năng tác nhân, mà các điều kiện khác, mà các điều kiện khác, như đẳng vô gián duyên v.v… cũng không thể nói là điều kiện sở duyên của thức ấy.

Lại nữa, năm thức thân lấy trạng thái cộng đồng hòa hiệp làm sở duyên, vì thể ấy tương tợ đặc tính của cái ấy. Nhưnghòa hiệp chỉ là một thể tập hợp của các cực vi, không thể nói tướng của cái hòa hiệp dị biệt cực vi mà có tự thể hiện thực. Bởi vì khi nó bị chia chẻ từng chi phần, thì thức nhất định hiện tồn với ảnh tượng tương tự của nó. Vì vậy, căn bản không tồn tại nhất thể hòa hiệp thực sự như là ngoại cảnh, chỉ tồn tại hòa hiệp thể xuất hiện trên thức.

Lại nữa, có một dạng sở duyên không phải là loại trạng thái hòa hợp của cực vi, do các cực vi không có hành tướng đó. Vì trong trạng thái cộng đồng hòa hiệp cùng với khi chưa hiện tiền hòa hiệp, thể và tướng của cực vi vẫn là đồng nhất.Do đó, trong trạng thái cộng đồng hòa hiệp cực vi cũng như dạng khi chưa hiện tiền hòa hiệp, tất cả cực vi đều không phải là sở duyên của năm thức thân.

Hơn nữa, có những người khác chấp rằng: mỗi mỗi cực vi là phần vị không kết hợp, không phải căn sở năng thủ. Tuy nhiên với tính cách bắc cầu kết hợp gia tăng thành cơ sở thật chất, liền thành căn sở năng thủ. Nhưng trong trạng thái kết hợp hoặc không kết hợp, thể tính vô biệt của cực vi không tăng thêm bất cứ cái gì. Do đây, rốt ráo có thể là căn sở năng thủ, hay phi căn sở năng thủ?

Lại nữa, nếu chỉ chấp lấy tính cách bắc cầu nối kết của cực vitác thành thức cảnh, thì trên thức sẽ không hội tụ sự hiện khởi hành tướng sai biệt của bình lọ, tường vách các thứ. Do bởi trong các cực vi không có những hành tướng đó. 

Lại nữa, thức bất đồng với ảnh tượng, cảnh bất đồng với hành tướng, điều đó không hợp lý, nếu như vậy thì phạm lỗi thái quá[11].

Lại nữa, các cực vi như trụ v.v.. y trên thắng nghĩa tức không tồn tại, do vì cực vi có phương này, phương kia và phần vị trung gian

Nếu không chấp nhận sự phân biệt này, thì cực vi sẽ không có sự sai biệt phương hướng đông, nam, tây, bắc v.v.. Y trên điều này, trạng thái cực vi cũng như thức là một dạng: không có tính chất ngại[12], không trụ phương sở[13], nếu như vậy phạm vào lỗi thái quá.

Như thế, ngoại cảnh không tồn tại, còn hành tướng của cảnh được sinh khởi không vượt ra ngoài thức, nên biết như mộng trong thức. Thọ v.v.. trong quá khứvị lai không thể dẫn sinh hành tướng đó[14]của thức, vì nó là pháp đã diệt, chưa sinh. Cho đến hiện tại của thọ v.v.. cũng không thể dẫn sinh hiện tại của thức. Bao gồm thọ các thứ trong phần vị khi chánh sinh, đều không tồn tại. Nếu sau khi đã sinh khởi, tức là thức cũng đã khởi hiện do hành tướng đó. Do đây, nó đều không có một chút tác dụng gì, ý thức cũng được sinh khởi từ vô sở duyên.

II. Ý NGHĨA GIẢ THÁC

1. Nạn vấn

ngoại đạo nêu lên nạn vấn sau đây: “Có vị khác nói, nếu tự ngã không tồn tại, sự giả thác trong các pháp hiện tiền không thể có. Vì cái giả thác được khái niệm phải y trên ba yếu tố[15], nếu khuyết giảm bất cứ yếu tố nào, thì không thể thành lập giả thác: 1. Cú nghĩa hiện tiền[16], 2. Cảnh vực tương tự[17], 3. Tính chất cộng thông[18].Như giả thác rằng “Thiếu niên này là lửa”, tất phải có lửa chân thực, có người tương tợ lửa, có tính cộng thông: tính chất vàng (màu da) hay tính chất nóng[19], thì giả thác “thiếu niên này là lửa” mới khả dĩ thành tựu.

Trong đây, hoặc y trên chủng loại, hoặc y trên thực vật, để giả thác rằng: thanh niên này là lửa, cảhai giả thác như là chủng loại và thực vật này đều bất thành.

Tính chất vàng và nhạy bén không phải là tínhchất chung của chủng loại. Khi không có tính chất cộng thông, thì loại giả thác được thiết lập y trên người thanh niên là phi lý, phạm vào lỗi thái quá

Nạn vấn: mặc dù, loại lửa này không phải là pháp có tính cộng thông, nhưng do tính vàng và tính nhạy bén không tách biệt với lửa, do đây có thể xây dựng loại giả thác trên người thanh niên?

Đáp: Trong trường hợp không có tính cộng thông trong loại lửa này, nhưng nói tính vàng và tính nhạy bén có thể tìm thấy trên người thanh niên, vì tính không tách rời nhau, nên có thể giả thác; điều này phi lý.

Lại nữa, như nói tính vàng và tính nhạy bén không tách rời nhau, nên cũng không thể giả thác; bởi vì trên người thanh niên loại lửa cũng thật hữu, như chân hỏa. 

Do đây có thể biết rằng, xây dựng loại giả thác này trên người thanh niên, là phi lý.

Sự giả thác y trên thực, lý cũng bất thành, vì không tồn tại pháp có tính chất cộng đồng[20]. Tức là phẩm tính của lửa, như tính nhạy bén, tính vàng không tồn tại trên người thanh niên. Tại sao như vậy? Bởi vì phẩm tính nhạy bén, vàng các thứ, nơi lửa và nơi người, tự thể của chúng khác biệt nhau. Tất cả dị biệt đều phụ thuộc vào sở y của nó. Do đây, nếu đã không có phẩm tính của lửa mà xây dựng giả thác này trên người thanh niên, sai lầm như đã nói trên.

Vấn nạn: Nếu nói, vì phẩm tính của lửa và của người tương tợ nên giả thác hợp lý? 

Đáp: Quả thật, nếu phẩm tính của lửa, như tính nhạy bén, tính vàng,  tương tự với phẩm tính trên người thanh niên, chẳng hạn như tính chất vàng, tính nhạy bén, thì giả thác này hợp lý. Nhưng giả thác này không phải nói trên người thanh niên. Bởi vì lửa không quan hệ gì với phẩm tính tương tự cả. Do vậy, giả thác này y trên thực, cũng phi lý.

Vả, giả thác tất y trên chân sự mà lập, điều này cũng không tồn tại. Bởi vì tự thân của chân sự ấy vốn siêu việt cảnh vực của hết thảy nhận thứcngôn thuyết. Do sắc thái phẩm tính mà nhận thứcngôn ngữ vận hành trong bản thể chứ không xúc chạm đến tự thân của bản thể. Nếu không phải như đây, phạm lỗi phẩm tính vô nghĩa[21].

Nếu khôngnhận thứcngôn ngữ, không có phương tiện nào để phán định bản chất của hiện thực nơi các khác.Do vậy, nếu tồn tại chủ thể tự tính của cảnh giới, tức là không có nhận thứcngôn ngữ, vậy thì, cũng không thể nói chân sự tuyệt đốitồn tại.

Cũng như không có chuỗi liên tục nơi âm thanh thì không có nhận thứcngôn ngữ, cũng vậy, cái biểu đạt và cái được biểu đạt[22]không tồn tại nên cú nghĩa hiện thựccủa bản nhiên[23]cũng không tồn tại.

Lại nữa, tất cả hữu này, đều chỉ là tợ hữu, chứ không phải chân hữu. Vì tợ hữu giả danh, nên cái đó[24]không thật sự hoạt động

Hết thảy âm thanh không được tìm thấy trong tự tính (=bản thể) nhưng hoạt động với hình thái phẩm tính[25]. Do đó, chân sự tuyệt đối phi hữu.

Do đây có thể biết rằng, có người vấn nạn: “Nếu không tồn tại thực ngã, thực pháp, thì sự giả thác không hợp lý”, điều này phi lý.

III. THỨC BIẾN

Hình thái biến thái của thức tuy vô lượng , nhưng loại biệt của thức biến thái chỉ có ba, do đó tụng nói:

Sự biến thái này có ba dạng”. /1d/[26]

Y chỉ thức biến thái này mà có giả thác ngã, giả thác pháp các thứ. Lại nữa, thức biến thái này do bởi tồn tại của nhân và tồn tại của quả mà có bất đồng.

Sự biến thái bởi nhân, đó là sự trưởng dưỡng của hai tập khí dị thụcđẳng lưu trong thức a-lại-da.

Sự biến thái bởi quả, đó là sự hiện thành của thức A-lại-da trong các chúng đồng phần được thành mãn do sự chiêu cảm của nghiệp quá khứ, khi tập khí của dị thục đạt đến trạng thái hoạt động. Đó cũng là sự hiện thành từ thức A-lại-da của các chuyển thức và ý nhiễm ô (thức thứ bảy) do tập khí của đẳng lưu đạt đến trạng thái hoạt động.

Chuyển thức thiện và bất thiện trầm tích trong A-lại-da thành tập khí dị thụctập khí đẳng lưu. Duy chỉ ý nhiễm ô (mạt-na) thuộc tính vô ký thành tập khí đẳng lưu.

Trên đã nói, hình thái biến thái của thức tuy vô lượng, nhưng loại biệt của thức biến thái chỉ có ba, nay vì nêu rõ loại biệt của nó, tụng nói:

Đó là dị thục, tư duy và sự thông tri đối tượng”[27]

Như vậy, ba dạng loại biệt của biến thái được nói là: dị thục, tư duy và sự thông tri đối tượng.

Ở đây, do thế lực của tập khí đã chín muồi của nghiệp thiện và bất thiện, theo đó mà dẫn đến sự hình thành kết quả, đó là dị thục.

Ý ô nhiễm[28], do tự thể của nó là thường xuyên tư duy quán sát nên nói là tư duy.

Do làm hiển hiện các đối tượng như sắc v.v. sáu hình thái nhận thức như mắt v.v. được nói là sự thông tri (khu biệt) đối tượng (liễu biệt cảnh).

 


CHƯƠNG II. THỨC A-LẠI-DA

Các đặc tính của chúng nếu không được thảo luận chi tiết, sẽ gây ra sự khó hiểu. Do vậy, sau đây tuần tự minh giải các đặc tính của nó, tụng nói:

Ở đây, thức được gọi là A-lại-da,

Dị thục, nhất thiết chủng”. //2cd/[29]

I. ĐỊNH DANH

Nói là “ở đây”[30]: tức chỉ trong ba dạng loại biệt của biến thái được nói ở trên. 

Nói là “A-lại-da”: tức nó được gọi là A-lại-da thức. Thức ấy chính là biến thái dị thục.

Ở đây, vì nó là trú xứ cho hạt giống của tất cả pháp tạp nhiễm, nên được gọi là a-lại-da. A-lại-da đồng nghĩa với trú xứ[31].

Hoặc trong trạng thái như là kết quả, các pháp được cất giấu, được an trí trong đó. Hoặc trong trong thái như là nguyên nhân, nó được cất giấu, được an trí trong tất cả các pháp.

nhận thức khu biệt, nên gọi là thức.

Vì là trạng thái đã chín muồi của nghiệp thiện và bất thiên trong các giới, các thú (định hướng), các sinh loại và các chủng loại, nó được gọi là dị thục.

Nhất thiết chủng, vì là sở y chohạt giống của tất cả các pháp.

A-lại-da thức và các chuyển thức tồn tại ngoại biệt, nên nói là do sở duyênhành tướng. Vì không có sở duyên, không có hành tướng, thức không thể đắc thành. Cũng vậy, không có sở duyên và không có hành tướng này, thì không thể phân biệt. Tại sao? Vì sở duyên không bị gián đoạn

nguyên nhân gì? Do thức A-lại-da có hai loại hoạt động: 1. Nội hữu, chấp thủ thông tin (liễu biệt); 2. Ngoại hữu, nhận thức  thế giới tự nhiên[32]hành tướng không bị đứt quãng.

Trong đây, nội chấp thủ: tức là ái trước tập khí của tính thể tự hữu cái cấu trúc toàn diện; nó là sở y của sắc căn và danh. Vì nó là sở duyên cực kỳ vi tế.

II. HÀNH TƯỚNGSỞ DUYÊN

Tụng nói:

Nó là cơ sở sinh mạng và nócũng là cái thông tin về sự tồn tại của thế giới, vốn là những điều không thể biết//3ab//

Nó là cái mà trong nó tồn tại cơ sở của sinh mạng, cơ sở ấy là điều không thể biết và sự nhận thức về thế giới tồn tại[33], cũng là điều không thể biết; cái đó chính là A-lại-da, nó chính là cơ sở sinh mạng và nó thông tri về sự tồn tại của thế giới, mà cả hai đều bất khả tri.

Cơ sở sinh mạng:tức thủ[34]. Nó là tập khí của cấu trúc ngôn ngữnhưngãv.v… vàtập khí của cấu trúc ngôn ngữ nhưsắc v.v… Do sự tồn tại tập khí ấy, thức A-lại-da trong trạng thái như là kết quả, tiếp thu sự cấu trúc ngã và cấu trúc sắc. Tập khí của những sự cấu trúc ngã và cấu trúc sắc ấy được gọi là cơ sở sinh mạng.

Lại nữa, chấp thọchấp thủ sở y. Sở y là tự thể[35]; nó là y xứ của nó là sắc căn và danh.

Chấp thủ tức thu nhận, cùng chịu chung một quy luật; cái chấp thủ như vậy là cơ sở sinh mạng.

Ở đây, nó chấp thủ danh sắc trong cả hai giới: dục giới, sắc giới. Tại vô sắc giới, nó lìa tính chất sắc tham, không sinh khởi[36]cấu trúc sắc, chỉ chấp thủ danh.

Do đây tuy vẫn còn phần vị tập khí nhưng nó đối với sắc không có phần vị cấu trúc ngôn ngữ.

Lại nữa, nó chấp thủ đặc tính của sở thọ, nhưng không thể đắc. Do đó, gọi là bất khả tri.

Nhận thức về (thông tri về) y xứ, đó là sự thông tri về vị trí (trạng huống) an bài của thế giới tự nhiên. Vì không có sự khu biệt về đối tượng và hình thái nhận thức của nó, nên sự thông tri ấy được nói là bất khả tri.

Tại sao sở duyên của thức đạt được sự không gián đoạn? Vì thức cùng với những cái khác, cũng như diệt tận định các thứ, phần vị của chúng đồng tính. Nếu không có phần vị này của diệt tận định và thức, thì không thể có thông hành. Chánh lý về Diệt tận định như trong kinh Diệt tận[37]đã đề cập.

III. TÂM SỞ TƯƠNG ƯNG

Như đã nói: “Ở đây, thức được gọi là A-lại-da”[38], nhưng vì thức nhất định phải tương ưng với tâm sở, nên nói thức này có chủng loại tâm sở gì và tương ưng với bao nhiêu tâm sở? Nó có thường tương ưng với tất cả chúng không? 

Tụng nói:

Luôn luôn đi theo nó là xúc,

Tác ý, thọ, tưởng, tư” //3cd//[39].

Nói là “luôn luôn”[40]: tùy thuận với sự tồn tại của thức A-lại-da mà câu khởi với năm pháp biến hành đó là xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư.

Cảm thọ đồng nghĩa với thọ[41].

Trong đây, do bởi tổ hợp ba xúc là sự phán đoán về biến đổi của căn; chức năng của nó là sở y của thọ. 

Trong trạng thái là nhân cũng như trong trạng thái là quả, sự cộng đồng tồn tại của căn, cảnh và thức là tổ hợp ba.

Khi tổ hợp ba đang tồn tại, đồng thời với nó là sự biến dạng của căn tùy theo các cảm thọ khổ lạc v.v…Xúc chính là sự biến dạng ấy, mà tương tự với sự biến dạng ấy là sự phán đoán các hình thái được cảm thọ như khổ lạc v.v… của đối tượng.

Sự kiệndo bởi đó căn xuất hiện như là nguyên nhân của khổ lạc các thứ; sự kiện đó là sự biến dạng của căn.

Lại nữa, xúc này do tương đồng với sự biến dị của căn, hoặc hoặc căn năng xúc, hoặc căn sở xúc, đó gọi là xúc. 

Do vậy, đây chính xác là do sự biến dị của thức thông tri khu biệt đối tượng, lấy nó làm tự tính. Cho nên gọi là biến dị phân biện của căn.

Nghiệp dụng của nó nhất định lấy thọ làm sở y tính.

Như Kinh nói:cảm thọ lạc phát sinh do duyên đến xúc mang tính chất cảm thọ lạc.

Tác ý: là vận dụng của tâm. Vận dụng tức chuyển hướng. Vì nó hướng tâm trên đối tượng.

Chức năng của nó là duy trì tâm trên đối tượng. Chức năng duy trì tâm trên đối tượng tức là thường xuyên dẫn tâm trên đối tượng. Chức năng đó quyết định đối tượng cho dòng tương tục của tâm.

Do đó, tuy nó có chức năng quyết định đối tượng cho dòng tương tục của tâm, nhưng chức năng này được nói từ nghĩa đặc thù của tác ý, thảy đều là phi sát-na tâm. Tại sao? Bởi vì nó chỉ có tác dụng tại mỗi một sát-na, chứ không có tác dụng trong các sát-na khác.

Thọ, có tự thể là cảm nghiệm.

Lại nữa, đó là trực tiếp cảm thọ hình thái đối tượng thuận, đối tượng nghịch, và đối tượng có tự thể viễn ly hai hành tướng này. Từ sự sai biệt này, phân thành ba loại: lạc, khổ, bất khổ bất lạc.

Nhưng mà có người nghĩ rằng: “Cảm nghiệm, tức là mỗi người lãnh thọ cá biệt quả dị thục của thiện nghiệp, bất thiện nghiệp. Trong đây, quả dị thục của thiện nghiệp, gọi là cảm nghiệm lạc; quả dị thục của bất thiện nghiệm, gọi là cảm nghiệm khổ; quả dị thục của cả hai loại này, gọi là cảm nghiệm không khổ không lạc. 

Lại nữa, trong đây, thức A-lại-da, duy chỉ có quả dị thục của thiện nghiệp, quả dị thục của bất thiện nghiệp.

Thức A-lại-da ấy chỉ tương ưng với xả thọ, căn cứ từ thắng nghĩa mà nói thực tế là quả dị thục của thiện, bất thiện nghiệp.

Nhưng mà, hai thọ khổ và lạc là dị thục sinh, y thiện nghiệp, bất thiện nghiệp; do đây, cũng được giả thác là dị thục.

Trong đây, sau khi cảm nghiệm lạc sinh khởi, lìa xa bất dục; khi nó đã diệt rồi, hy vọng dục này được tái hòa hợp sinh trở lại.

Nhưng sau khi cảm nghiệm khổ sinh khởi, tức lìa xa dục, khi nó đã diệt rồi, không hy vọng dục này tái hòa hợp sinh khởi lại.

Cho đến sau khi cảm nghiệm không khổ không lạc sinh khởi, tức cả hai loại ly, hợp của dục đều bất sinh.

Tưởng, là sự nắm bắt dấu hiệu nơi đối tượng.

Đối tượng: đồng nghĩa với sở duyên.

Dấu hiệu: tức là những sai biệt của nó, cũng tức là an lập sở duyên được căn cứ như xanh, vàng các thứ.

Do sự bắt nắm dấu hiệu, nên có thể quyết định: “Đây là màu xanh, mà không phải màu vàng”.

Tư, là cái tác động tâm và phát động ý. Khi nó khởi động, như chỗ nào có từ thạch thì các loại sắc bị hút về đó; nên nhờ có tác ý này khiến tâm di động hướng đến sở duyên.

Thọ có ba loại: lạc, khổ, không khổ không lạc.

Pháp có bốn loại: thiện, bất thiện, vô phú vô kí, hữu phú vô kí.

Trong đây, do nơi thức A-lại-da, tổng thuyết có thọ, trong ba loại thọ trên, không biết thuộc vào loại thọ nào? Như thế nó là thiện hay bất thiện? Là vô phú vô kí hay hữu phú vô kí? Cũng chưa được biết rõ...

 

Phước Nguyên dịch & chú

______________________

[2]ātmadharmopacāro hi vividho yaḥ pravartate | 1ab. Tib. bdag dang chos su nyer 'dogs pa/ /sna tshogs dag ni gang byung ba/ /

[3]vijñānapariṇāme 'sau | 1c

[4]Thích từ: vividha

[5]Thích từ: pariṇāma

[6]vilakṣaṇaḥ(dị tướng, bất ly tướng): không tách lìa hình thái, hay không dị biệt đặc điểm

[7]sợi lông và các vòng

[8]abhāvaprasaṅgān

[9]Yujyate, không tương ưng, không đắc thành, không hợp lý, không thể chứng minh, không phù hợp.

[10]Parikalpitasvabhāva: phân bố cấu trúc do yếu tính tự hữu, do tính thể tồn tại cá biệt.

[11]atiprasaṅga: lỗi đại quá, lỗi bất định. Cf. Nyāyabiṇḍuṭīka, 89.2 Stcherbatsky, Buddhist Logic II, 239, n.1: atiprasaṅgāt: “because of an over-deduction ad absurdum; the term is used when the deduction implies giving up of every uniformity and the possibility of everything.”

[12]Amūrtatvam: Chất ngại, tính chất cố kết, hữu hình

[13]adeśasthatvañ: Có phương sở, phương phần hay vị trí và phần vị hay thành phần.

[14]Tadākāra: bỉ hành tường, thay thế cho thọ v.v..

[15]Ba yếu tố để thành giả thác: chân sự (mukhyapadārtha), tợ sự (tatsadṛśa-viṣaya), và cộng pháp(sādhāraṇa-dharma).

[16]Cú nghĩa hiện tiền (mukhyapadārtha), phạm trù tồn tại, một người hay một vật cần được mô tả hay ám chỉ đang hiện diện.

[17]Cảnh vực tương tự (tatsadṛśa-viṣaya), vật tương tự được dùng để ám chỉ.

[18]Cộng pháp (sādhāraṇa-dharma), tính chất chung hay tính chất cộng thông giữa người hay vật được ám chỉ mô tả và người hay vật được dùng để ám chỉ, mô tả.

[19]Thành duy thức: có tính chất nóng và đỏ, 猛赤. Sthiramati: kapilatve tīkṣṇatve vā, tính chất vàng (màu da) hay nóng

[20]Pháp có tính chất cộng đồng.

[21]guṇavaiyarthyaprasaṅgaḥ

[22]Năng thuyênsở thuyên.

[23]Chân sự

[24]Chủng chủng

[25]Nghĩa là âm thanh được nhận thức với cộng tướng chứ không với tự tướng; nhận thức trong chuỗi liên tục của nó.

[26]pariṇāmaḥ sa ca tridhā || 1d, tib. zhes bya ba smos so/ /

[27]vipāko mananākhyaś ca vijñaptir viṣayasya ca | 2ab; Tib. rnam par smin dang ngar sems dang/ /yul la rnam par rig pa'o/ /zhes bya ba smos so/ /

[28]Chỉ thức thứ bảy

[29]tatrālayākhyaṃ vijñānaṃ vipākaḥ sarvabījakam /2cd/

[30]Thích từ tatra

[31]Nguyên nghĩa, ālaya chỉ cho cai nhà, chỗ trú ẩn, do đó Hán cũng có khi dịch là quật trạch (hang ổ). Về tạp nhiểm, Khuy Cơ: tiếng Phạn là tăng-cát-lệ-thước (sāṃkleśika).

[32](khí thế giới, bhājanavijñapti)

[33]Sự thông tri về xứ sở.

[34] (chấp thủ, trong thủ uẩn)

[35](thân thể, Tib. lus)

[36]Na-abhi-nir-√vṛt, abhinirvṛtta

[37]sūtravirodhāc

[38]tatrālayākhyaṃ vijñānam (2c)

[39]sadā sparśamanaskāravitsaṃjñācetanānvitam 3cd; rtag tu reg dang yid byed dang/ /reg dang 'du shis sems par ldan/ /

[40]Thích từ: iti, thường.

[41]vit = vedanā 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12249)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11016)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10908)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13354)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11780)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13658)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11898)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11166)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12189)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12393)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20584)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12411)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12444)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11706)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11577)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22408)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13560)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29644)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11538)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16717)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 11989)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16826)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12064)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17909)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12624)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13151)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14745)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22608)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10574)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14039)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13866)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13705)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13855)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13923)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14820)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13838)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18405)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22785)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15385)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17306)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22405)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14251)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12571)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11148)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17757)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13197)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13095)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18779)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17168)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13488)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12902)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14692)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14642)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15855)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13503)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27414)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13215)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16680)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
(Xem: 21375)
Tiếng Phạn sthùpa, tiếng Pàli thùpa, dịch âm là tốt đổ ba, tô thâu bà; lược dịch là tháp bà, Phật đồ, phù đồ; dịch ý là chỗ cao ráo, nơi hội tụ công đức, ngôi mộ lớn...
(Xem: 18803)
Bồ Tát Quan Thế Âmhiện thân của Từ Bi, Ngài phát đại nguyện thực hiện từ bi cùng tận trong đời vị lai, nếu chúng sinh còn đau khổ. Vì chỉ có từ bi mới giải trừ đau khổ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant