Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Giác ngộ và Niết-bàn

05 Tháng Mười Hai 201813:15(Xem: 5730)
Giác ngộ và Niết-bàn

Giác ngộ và Niết-bàn

 

GS Nguyễn Vĩnh Thượng

 

Lời tác giảViệc biên soạn chắc chắn không tránh khỏi những chỗ sai sót, chúng tôi ước mong được sự lượng thứ của các bậc cao minh. Những sự sửa saibổ khuyết của quý vị độc giả sẽ giúp  bài viết này được đầy đủ và hoàn hảo hơn trong lần viết lại; đó quả là niềm vinh hạnh cho chúng tôi.
     
NVT

Trong bài viết này, tôi sẽ trình bày:

              Phần thứ nhất:  Giác ngộ
                                      I. Định nghĩa: Giác ngộ.
                                    II.-Đức Phật lịch sử là bậc giác ngộ.
                                    III.-Giác ngộ theo quan niệm của các tông phái Phật giáo.

              Phấn thứ hai: Niết-bàn.

 

           Phần thứ nhất:   Giác Ngộ

 

I.- Định nghĩa:  Giác  ngộ

 

        Giác ngộ(Hv.覺悟, Srt., Pa. bodhi)là tiếng Hán Việt được dịch từ chữ bodhi.

         Giác(覺) có nghĩa là hiểu ra, phát hiện, cảm nhận.
       Ngộ(悟)có nghĩa là hiểu thấu đáo, hiểu biết tường tận đến nơi đến chốn. Ngộ có nghĩa là làm cho tỉnh lại, không còn mê muội.
        Giác ngộLuân hồi là hai ý niệm đã có từ trước khi Đức Phật lịch sử Thích-ca Mâu-ni ra đời. Các ý niệm này được trình bày trong các kinh Veda và Upanishad vào khoảng 1500 trước CN.

          Như vậy, “Giác ngộ” có nghĩa là hiểu rõ chân tính của mọi lý lẽ, thức tỉnh, nhận thức ra chân lý, tỉnh mộng.

         Bodhi(Giác ngộ) có nguyên ngữ là Budh(người bình dân Việt Nam thường gọi là Bụt, người Tàu phiên âm từ tiếng BuddhaPhật 佛nói cho đủ là Phật-đà佛陀, trong các Kinh sách Việt Nam hầu hết đều gọi là Phật). Giác ngộ là kết quả của một hành trình nhận thức đi đến chỗ thấu đáo chân lý. Nói khác, Giác ngộ là sự tỉnh thức(Av. enlightenment/ awakening), là hiểu biết thấu đáo chân tính của mọi lý lẽ.

  “Phật giáo truyền vào Việt Nam ở cuối thế kỷ thứ nhất sang đầu thế kỷ thứ hai của Tây lịch. Phật giáo truyền vào nước ta bằng hai đường: một là từ Ấn độ truyền trực tiếp vào bằng đường biển do các thương nhân và tăng sĩ Ấn độ; hai là bằng đường bộ từ Trung Quốc. Cách phiên âm chữ Phạn “buddh” còn để lại hai cách như sau: lối phiên âm trực tiếp từ Ấn độ đọc là Bụt (Buddh), ở miền quê xứ Bắc Việt Nam thường phát âm theo lối này; cách phát âm từ chữ Hán Việt truyền từ ngõ Trung quốc đọc là Phật (Buddh) hay cho đủ là Phật-đà (Buddha).”

 Nguyễn vĩnh Thượng, Tư tưởng Phật giáo trong văn học đời Lý, Hiện Đại: 1996, Toronto, Canada.

 

II.- Đức Phật lịch sử là bậc Giác Ngộ:

              Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.

               Thái tử Siddhartha đã ngồi dưới gốc cây Bồ-đề (the Bodhi tree) trong 49 ngày. Ngài đã suy niệm để tìm chân lý, cuối cùng ngày đã giác ngộ vào ngày thứ 49. Trong “Bài thuyết pháp đầu tiên/ Kinh chuyển Pháp luân” Ngài đã kết luận:

         “Này các thầy Tỳ Kheo! đến khi Như Lai thấu triệt Bốn Diệu Đế/ Bốn Thánh Đế(insight and understanding of the Four Noble Truths/Four Holy Truths), về 3 phương diện(three stages) và đủ mười hai phương thức(twelve aspects) một cách hoàn toàn sáng tỏ thì đến lúc đó Như Lai mới xác nhận trước thế gian này gồm có cả chư Thiên (Gods), Ma vương (Maras), Phạm thiên (Brahmas), Đạo sĩ (Recluses), Giáo sĩ Bà-la-môn (Brahmans), Con người (Humans) và loài ngoài hạng con người nữa (Some-One) rằng:

Như Lai đã đạt được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh GiácVà rằng lúc ấy tri kiếnnhãn kiến phát sanh thì tâmcủa Như Lai được giải thoát và không còn lay chuyển. Đây là kiếp sống cuối cùng của Như Lai, Như Lai sẽ không bao giờ tái sanh nữa.”
   (
I attained the highest and complete Awakening. Thus I knew; knowledge arose in me, insight arose that the emancipation of mind is unmovable. This is my last existence, now there is no more re-birth)
   (
Trích bài: “Kinh chuyển Pháp luân” bản dịch và chú thích của NVT)

                    Mọi chúng sanh đều có thể tìm được chân lý của cuộc đờichấm dứt được tái sanh khi đã giác ngộ. Muốn “giác ngộ” phải thấu triệtBốn Diệu Đế” (Four Noble Truths), và phải thực hànhcon đường trung đạo” (the middle way) của Bát chánh đạo( the Eight Noble Path). Theo truyền thống Phật giáo thì “sựgiác ngộ” là bản tánh thật sự nơi mỗi chúng sanh, nhưng vì đời sống con người có quá nhiều phiền nhiểu nên vô minh(Srt, Avidya, Av. Ignorance) che lắp sự hiểu biết này, do đó chúng sanh bị ràng buộc vào vòng sanh tử luân hồi.

               Đức Phật đã giảng: để đạt được tình trạng giác ngộ, chúng sanh phải diệt được những điều bất hài lòng/ khổ đau. 
               Theo Phật giáo nguyên thuỷ thì các bậc A-la-hán (Arahant)đã chấm dứt được nghiệp (karma) của họ: tất cả nghiệp thiện (good karma), nghiệp ác (bad karma), nghiệp không thiện không ác (neutral karma) đều không còn.

     Còn Phậtthì  được định nghĩa như sau:
        “Phật (Buddh,佛,Anh văn: Buddha) có nghĩa là bậc đã giác ngộ (the awakened one or the enlightened one). Phật, hay Giác giả hay Thế Tôndanh hiệu tôn xưng (the reverend title, very respected title) về đức độ của Phật. Ngài là một con người lịch sử (the historical person) đã khám phá con đường giải thoát (the path to nirvana) cách chấm dứt khổ đau (the cessation of suffering) và truyền bá những khám phá nầy cho nhân loại để họ cũng có thể đạt được sự giải thoát.

                 Đức Phật lịch sử đã dạy rằng tất cả chúng sanh đều có khả năng giác ngộ như Ngài. Ngài nhấn mạnh rằng Ngài chỉ là một chúng sanh có cùng những xu hướng, những cám dổ như mọi người khác. Nhưng có nhiều chân lý mà Ngài đã “ngộ” được dưới gốc câyBồ-đề” là nhờ tâm linh của Ngài khác với người bình thường, Ngài không bị những thiên kiến, những ràng buộc che lấp chân lý.

 

III.- Giác ngộ theo quan niệm của các tông phái Phật giáo

                   Trong sự phát triển của học thuyết Phật giáo (with the development of Buddhist doctrine), quan niệm về “Giác ngộ” đã có những diễn biến theo thời gian và đã có những sự thích nghi với các nền văn hoá xã hội địa phương. Chúng tôi sẽ tóm tắt vài quan niệm khác nhau về “Giác ngộ” của các tông phái Phật giáo:

                      1.-Truyền thống phật giáo Nguyên thủy(Original Buddhism tradition) dưới thời Đức Phật lịch sử còn tại thế, đã trình bày ở trên.

                      2.-Truyền thống Theravada/ Thượng tọa bộ(Theravada tradition): Theravada đã quan niệm mục đích của việc thực hành tu tập tâm linhquả vị A-la-hán, tương tự như quan niệm của Phật giáo Nguyên thủy. Họ dẫn chứng rằng trong thời gian Đức Phật lịch sử còn tại thế đã có nhiều đệ tử của Ngài đạt được quả vị A-la-hán.

                    3.- Truyền thống Tịnh độ tông(Pureland tradition): đây là pháp môn niệm “A-di-đà Phật” để đạt cứu cánh vãng sanh vào cõi cực lạc của Đức Phật A-di-đà. “Giác ngộ” không phải là cứu cánh tu hành của phái này.

                     4.-Truyền thống Mật tông/ Kim cương thừa (Vajrayana tradition): Phái này đưa ra nhiều cách thức tu tập để dẫn tới “Giác ngộ”.  Mật tông cũng đã cho rằng mọi người đều có thể đạt được Phật tính trong cuộc đời của mình bằng cách thực hiện những phương phápquyền lực bí truyền. Các phương pháp tu tập này rất bí mật, họ chỉ truyền cho những người ở trong đạo mà thôi.

                      5.-Truyền thống Thiền tông(Zen tradition): Thiền sư dạy đệ tử ngồi thiền, và thiền quán để đạt được bản tánh của Phật, không cần phải dựa vào văn tự ngôn ngữ. Hành giả có thể “Giác ngộ” một cách thình lình. Vị Thầy Thiền sư có thể truyền thẳng chân lý cho đệ tử.

 

Kết luận:

             Chúng ta có thể kết luận rằng:
                       1.-“Giác ngộ” là trạng thái chấm dứtvô minh”. Trạng thái thấu hiểu được sự vô thường, sự tương liên của chúng sanh.

                       2.-Tất cả các truyền thống Phật giáo đều cho rằng “Giác ngộ” đem đến sự chấm dứttham, sân, si”, sự sợ hãi, và đem lại sự bình an, đem lại tình thương cho người khác cũng như cho chính mình.

                            “Giác ngộ” không phải là những ý niệm chỉ đọc trong sách vở mà phải được thực hành tu tập thì mới có thể đạt được. Thí dụ: chúng ta ngắm nhìn các hình ảnh của các món ăn ngon suốt ngày thì chúng ta không thể nào thực sự biết được vị ngon của nó. Chúng ta không thể chỉ nhìn ly Cà-phê nóng với sửa đặc có đường mà biết được hương vị thơm ngon của nó cho đến khi ta uống vào một hớp cà-phê sửa đặc có đường này.

                 Phần thứ hai:  Niết-bàn

              Nirvana(Niết-bàn) là một thuật ngữ Phật giáo đã bị các nhà nghiên cứu Phật học Tây phương hiểu lầm nhiều nhất. Họ cho rằng Nirvana có nghĩa là Thiên đường (Heaven).
                
                Đức Phật lịch sử đã diễn tả Nirvananhư là một cứu cánh tối hậu, và Ngài đã đạt trạng thái Nirvana khi Ngài giác ngộ. Khi đã giác ngộ, Ngài muốn giảng dạy cho những người khác để họ có thể trải nghiệm được sự nhận biết này. Khi Ngài nhập diệt, 45 năm sau khi Ngài giác ngộ, Ngài đã nhập vào Pari Nirvana(Tàu phiên âm là Bát Niết-bàn) có nghĩa là Niết-bàn cuối cùnghay Niết-bàn hoànhảo.

                 Nirvana,theo tiếng Sanskrit xưa, có nghĩa là "thổi tắt lửa" (blowing out the flame), dập tắt lửa(to extinguish a flame) trước khi đi ra khỏi nhà để tránh hoả hoạn. Niết-bàn (Srt. Nirvana, Pa. Nibbana) là một thuật ngữ Phật giáo có nghĩa là giải thoát khỏi luân hồi(輪迴,Sa. Pa., Samsara, Av. rebirth), tức là tình trạng dập tắt được ba ngọn lửa bất thiện là tham lam(Sa.Raga, Av. greed), sân(Sa. Dvesha, Av. Aversion/ hate) và si (Sa. Avidya, Av. Ignorance/ Delusion). Niết-bàn là tình trạng tịch tĩnh (寂静), nghĩa là tình trạng yên tĩnh, bình an (Nirvana is peace).

                  
                 Điều quan trọng cần phải hiểu rằng Niết-bàn không phải là một cõi,một nơi(Nirvana is not a place), như ý niệm về “tự do” Niết-bàn là một trạng thái (like freedom, it is a state). Để đạt được cứu cánh Niết-bàn thì hành giả phải tiến hành tu tập.

                 Đạt được Niết-bàn hay đạt được giải thoát không có nghĩa là chúng ta không còn trải nghiệm những sự việc/ hiện tượng không được hài lòng/ khổ đau. Thay vào đó, chúng ta không còn tạo ra những sự không hài lòng/ khổ đau trong cuộc đời của chúng ta. Chính Đức Phật lịch sử cũng đã trải nghiệm những điều không hài lòng sau khi Ngài đã giác ngộ, nhưng Ngài không cảm nhận sự đau khổ về các điều bất hài lòng này.
             (Xem thêm: bài Cuộc đời của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni của NVT.

                  Nguồn: như đã dẫn.)

                      
             Như vậy, nói cách khác, Niết-bàn (Nirvana) là một trạng thái không còn bám víu/ buông bỏ (state of non-clinging), không còn sân hận (non-aversion) và hiểu thấu đáo vào bản chất của thực tại (clarity into the nature of reality).         

 

                  Theo truyền thống Phật giáo, Đức Phật đã nhận thức được hai loại Niết-bàn: một là lúc Ngài giác ngộ (one at his enlightenment), hai là lúc Ngài qua đời (another at his death). Do đó các nhà Phật học phân biệt hai loại Niết-bàn:
                         1.Hữu dư Niết-bàn (有餘涅槃; Sa. Sopadhiśeṣa-nirvāṇa, Pa. Savupadisesa-nibbāna, Av. Nirvana with a remainder): là trạng thái thanh thản, tịch tĩnh của bậc thánh nhân đã dứt được tam độc: tham, sân và si, đã giải thoát khỏi mọi khổ đau/ mọi sự bất hài lòng của cuộc đời, và đã không còn tạo nghiệp khi vẫn còn sống. Bậc thánh nhân này dù đã giác ngộ nhưng vẫn còn sống trên cõi đời nên vẫn còn Ngũ Uẩn, còn có nhân trạng nên gọi là "hữu dư"; Niết -bàn này gọi là Hữu dư Niết-bàn.

                         2.Vô dư Niết-bàn(無餘涅槃, Sa. nirupadhiśeṣa-nirvāṇa, Pi. anupadisesa-nibbāna,Av. Nirvana without remainder) là trạng thái tịch tĩnh khi đã chết, đã vượt khỏi luân hồi, không còn sắc thân, đã tịch diệt. Loại Niết-bàn này còn được gọi là Bát-Niết-bàn(Sa. Pari Nirvana) hay Niết-bàn cuối cùng(final Nirvana) hay Niết-bàn hoàn hảo (completed Nirvana).

 

                Như đã nói, Niết-bànkhông phải là một nơi chốn (Nirvana is not a place). Niết-bàn là một trạng tháihành giả khám phánhận thức được khi giác ngộ.

     
               Niết-bànkhông hiện hữu ra ngoài Vô thường, Khổ(Dukkha, đúng nghĩa là Những điều không bằng lòng) và Vô Ngã.Nếu chúng ta thấu hiểu được Vô thườngVô Ngãvà diệt được thực tại Khổ đau (Những điều không bằng lòng)thì chúng ta sẽ khám phánhận thức được Niết-bànở ngay trong cõi đời này. 

 

Toronto, 15 August 2018

Nguyễn Vĩnh Thượng

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 149)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 197)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 222)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 286)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 197)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 249)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 316)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 279)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 298)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 378)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 613)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 474)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 484)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 575)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 752)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 834)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 854)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 842)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 732)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 710)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 714)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 813)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 833)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 940)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 716)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 613)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 711)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 824)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 711)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 707)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 823)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 850)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 826)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 864)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 893)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 886)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1077)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 952)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1667)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1066)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1211)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 955)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1211)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1116)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1123)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1279)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1558)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2032)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1096)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1354)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1097)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 947)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1065)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1098)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1535)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1286)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1290)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1023)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1181)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant