Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Làm Thế Nào Để Có Một Đời Sống Đạo Đức

27 Tháng Hai 201906:11(Xem: 4598)
Làm Thế Nào Để Có Một Đời Sống Đạo Đức
Làm Thế Nào Để Có Một Đời Sống Đạo Đức

Đức Đạt Lai Lạt Ma

Làm Thế Nào Để Có Một Đời Sống Đạo Đức


Nền Tảng Căn Bản của một Đời Sống Đạo Đức:
Quan Tâm Bản Thân đối đầu với Quan Tâm Người Khác


Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ. Đây là tinh túy của cách sống một cuộc đời đạo đức.

Mỗi một hành động đều bắt nguồn từ một động cơ. Nếu ta phương hại người khác, điều này bắt nguồn từ một động cơ; và nếu ta giúp đỡ người khác, điều ấy cũng bắt nguồn từ một động cơ. Thế nên, để hỗ trợ hay phục vụ người khác, chúng ta cần một động cơ nào đấy. Vì thế, ta cần các khái niệm nào đó. Tại sao ta lại giúp đỡ và không phương hại người khác?

Thí dụ, khi ta sắp làm hại ai đó, ta có một loại ý thức nào đấy và điều này sẽ khiến ta kềm chế hành động của mình. Điều này có nghĩa là ta cần có một sự quyết tâm [không làm hại cho người khác]. Một góc của tâm thức ta muốn làm hại người nào đó, nhưng vì một trạng thái nào đó của tâm, một phần khác của tâm ta cho rằng điều này là sai trái, là không đúng. Bởi vì ta thấy rằng nó sai, thế nên ta phát triển một ý chí và tự kềm chế mình. Về mặt của hai sự lựa chọn [gây hại hay kềm chế,] chúng ta cần có một sự ý thức rằng những hành vi nào đó sẽ có những hậu quả lâu dài. Là con người, chúng tatrí thông minh để thấy được những hậu quả dài hạn. Khi ta thấy được chúng, ở một mức độ nhất thời, ta có thể tự kềm chế mình.

Ở đây, có hai cách tiếp cận khác nhau mà ta có thể chọn lựa. Với cách thứ nhất, ta nghĩ theo khía cạnh của sự quan tâm cho bản thân mình, rồi nếu ta có thể giúp đỡ ai đó, ta sẽ hành động; còn nếu không thể giúp, ta sẽ tự kềm chế mình để [không gây ra bất kỳ sự tổn hại nào]. Cách tiếp cận khác là suy nghĩ theo khía cạnh của sự quan tâm về người khác và cũng như vậy, nếu ta có thể giúp họ, ta sẽ giúp; còn nếu không, ta sẽ tự kiềm chế để [không gây hại cho họ]. Về khía cạnh kềm chế để không làm tổn thương người khác, ta sẽ nghĩ: “Nếu mình làm điều này, mình sẽ đối diện với những hậu quả tiêu cực bao gồm những hậu quả về mặt pháp lý” và thế là ta tự kềm chế mình vì lý do này, đó là sự tự chế vì lý do quan tâm đến bản thân mình. Bây giờ, khi suy nghĩ về người khác như một lý do, ta sẽ nghĩ: “Người khác cũng giống như mình. Họ không muốn khổ đau; vì vậy, ta sẽ tránh làm hại họ.”

Khi ta rèn luyện [tâm thức mình], trước tiên, ta nghĩ về bản thân rồi nghĩ đến người khác một cách nhiệt tình. Về mặt hiệu quả, việc nghĩ đến người khác một cách nhiệt tình là điều mãnh liệt hơn. Về phương diện giới Ba La Đề Mộc Xoa – tức biệt giải thoát giới, truyền thống giới luật của sự tu tập trong tu viện – nền tảng chính yếusuy nghĩ về bản thân mình và vì vậy mà ta tránh việc gây hại cho người khác. Đó là vì ta đang hướng đến mục đích giải thoát. Về mặt tu tập bồ tát hạnh, lý do chính để không phương hại người khác là sự quan tâm đến phúc lợi của tha nhân. Có lẽ điều thứ hai, đó là tránh gây hại và giúp đỡ người khác trên căn bản vị tha, có một sự liên hệ với trách nhiệm phổ quát mà tôi rất thường đề cập đến.

Tính Chất Cơ Bản của Con Người

Nói chung, con người là những động vật xã hội. Bất kể là ai, sự sống còn của người ấy tùy thuộc trên toàn thể cộng đồng nhân loại. Vì sự sống còn và phúc lợi của mỗi cá nhân lệ thuộc vào xã hội, nên nhu cầu nghĩ đến phúc lợi của người khác và quan tâm về nó xuất phát từ bản tính cơ bản của chúng ta. Nếu ta nhìn vào những con khỉ đầu chó, thí dụ thế, con khỉ già hoàn toàn lãnh trách nhiệm cho cả đàn. Trong khi những con khác đang ăn thì con khỉ đực già luôn luôn canh chừng ở bên cạnh chúng. Con thú mạnh hơn sẽ chăm sóc cả đàn vì lợi ích của xã hội loài thú.

Trong thời tiền sử, con người chúng ta không có nền giáo dục hay kỹ thuật. Căn bản xã hội con người còn đơn giản: tất cả mọi người cùng lao động và chia sẻ với nhau. Những người cộng sản nói đây là chủ nghĩa cộng sản nguyên thủy: mọi người cùng làm việc và hưởng thụ với nhau. Rồi cuối cùng, nền giáo dục phát triển và chúng ta có một nền văn mình. Tâm thức [con người] trở nên phức tạp hơn và vì thế, lòng tham tăng trưởng. Điều đó dẫn đến lòng ganh tỵ và thù hận, rồi dần dần, chúng lớn mạnh hơn.

Ngày nay, trong thế kỷ hai mươi mốt, có quá nhiều sự thay đổi đã xảy ra [trong xã hội loài người]. Sự khác biệt giữa chúng ta đã phát triển – [những sự khác biệt về] học vấn, nghề nghiệp và bối cảnh xã hội. Thậm chí có sự khác biệt về tuổi tác và chủng tộc – nhưng tất cả những điều này không quan trọng. Ở mức độ cơ bản, chúng ta vẫn là con người và tất cả đều giống nhau. Đây là mức độ của hàng trăm nghìn năm trước.

Thái độ của trẻ thơ là như thế. Chúng không quan tâm về bối cảnh xã hội, tôn giáo, chủng tộc, màu da hay sự giàu có của những đứa trẻ khác. Chúng cùng nhau nô đùa; chúng là những người bạn chân thật của nhau, cho đến khi nào chúng còn thân thiện với nhau. Bây giờ cứ cho rằng những người lớn như chúng ta thông minh và phát triển cao độ hơn trẻ con, nhưng chúng ta xét đoán bối cảnh xã hội của nhau. Chúng ta tính toán, “Nếu mình mĩm cười thì mình sẽ được những gì mình muốn không; còn nếu mình nhăn mặt thì mình sẽ mất mát điều gì hay không?”

Trách Nhiệm Phổ Quát

Ý nghĩa của trách nhiệm phổ quát hay toàn cầu hoạt động ở mức độ của con người. Chúng ta quan tâm về người khác bởi vì: “Tôi là một người trong nhóm của họ; sự phúc lợi của tôi tùy thuộc vào họ, bất kể giữa tôi và họ có sự khác biệt gì.” Những sự khác biệt luôn luôn hiện diện; nhưng cách suy nghĩ như thế này có thể hữu ích.

Trong vài thế kỷ qua, dân số trên hành tinh này chỉ có khoảng một tỷ người; giờ đây đã có hơn sáu tỷ người. Vì dân số quá cao, một quốc gia không thể cung cấp toàn bộ thực phẩm và tài nguyên cho dân chúng trong nước. Thế là chúng ta có kinh tế toàn cầu. Vì thế, với hiện trạng của ngày hôm nay, thế giới đã thu nhỏ lại và các quốc gia phụ thuộc lẫn nhau rất nhiều. Thực tế là như vậy. Ngoài điều này ra, còn có vấn đề môi sinh: trái đất đang gia tăng nhiệt độ. Đây là một điều đáng quan tâm đối với toàn thể sáu tỷ cư dân của hành tinh này, không chỉ với một hay hai quốc gia. Thực tế mới mẻ này đòi hỏi một tinh thần trách nhiệm toàn cầu.

Thí dụ vào thời xưa, Anh quốc chỉ nghĩ về nước họ và đôi khi đã khai thác một số vùng đất khác trên trái đất. Họ không lưu ý đến sự quan tâm hay cảm nhận của những người dân ở các vùng này. Vâng, đó là quá khứ. Nhưng bây giờ sự việc đã khác xa; mọi thứ đã thay đổi. Hiện nay, chúng ta phải chăm sóc các quốc gia khác.

Trên thực tế, thật ra những người theo chủ nghĩa đế quốc ở Anh đã làm một số việc tốt đẹp. Họ mang lại nền giáo dục ưu việt bằng Anh ngữ cho Ấn Độ. Ấn Độ sẽ thừa nhận điều này. Anh quốc còn mang lại nền kỹ thuật và hệ thống đường rầy xe lửa. Đó là một trong những phẩm chất bù đắp của quý vị. Khi tôi đến Ấn Độ, một số những người theo chủ nghĩa Gandhi vẫn còn sống và họ góp ý với tôi về các phương pháp bất bạo động của Gandhi. Vào lúc đó, tôi đã nghĩ rằng những người của đế quốc Anh quá xấu xa. Nhưng rồi tôi thấy rằng đã có một nền tư pháp độc lậpẤn Độ, tự do ngôn luận, tự do thông tin và v.v… Vì vậy, khi phản ảnh sâu sắc hơn, tôi thấy những điều này quá tốt đẹp.

Ngày nay, có một sự phụ thuộc chặt chẽ giữa các quốc gia và các lục địa. Với hiện trạng này, chúng ta thật sự cần có tinh thần trách nhiệm toàn cầu. Mối quan tâm của bạn lệ thuộc vào sự phát triển và mối quan tâm của người khác. Thế nên, vì sự quan tâm cho bản thân, bạn phải chăm sóc cho người khác. Trên lĩnh vực kinh tế, điều này đã xảy ra. Ngay cả khi chúng ta có những tư tưởng khác biệt và thậm chí khi chúng ta không tin tưởng nhau, chúng ta vẫn phải giao tiếp với nhau trong nền kinh tế tương quan toàn cầu. Vì thế, trách nhiệm toàn cầu dựa trên nền tảng tôn trọng nhu cầu của nhau là điều vô cùng quan trọng.

Ta cần quan tâm đến người khác như anh chị em và phải có một cảm giác gần gũi. Điều này không liên hệ gì với tôn giáo cả. Chúng ta thật sự cần điều này. Ở một mức độ nào đó, ta có khái niệm về “ chúng ta và họ”, – dĩ nhiên ta có thể nói như vậy – nhưng toàn thể thế giới cần tự xem mình như một phần của “chúng ta”. Mối quan tâm của những người láng giềng của ta là sự quan tâm của bản thân ta.

Sự Toại Nguyện

Một cá nhânmột đời sống đạo đức có nghĩa là không gây hại cho ai, và nếu được thì giúp đỡ cho người khác. [Để thực hiện điều này,] nếu ta lấy phúc lợi của người khác làm nền tảng đạo đức cho chính mình – điều này sẽ trở nên một phạm vi đạo đức rộng lớn hơn. Lối sống của chúng ta phải quan tâm đến những yếu tố này.

Khoảng cách lớn giữa giàu và nghèo vẫn còn tồn tại, ngay cả ở Hoa Kỳ. Nếu chúng ta nhìn vào Hoa Kỳ, một quốc gia giàu có nhất, nhưng ở đó vẫn có những lỗ hổng của sự nghèo đói. Có một lần tôi đến Washington DC ở Hoa Kỳ, thủ đô của xứ sở giàu nhất, tôi đã thấy nhiều khu dân cư nghèo nàn ở đó. Nhu cầu căn bản của những người sống ở những khu vực này đã không được đáp ứng đầy đủ. [Tương tự như thế,] ở mức độ toàn cầu, nền kỹ nghệ công nghiệp ở phía Bắc phát triển mạnh và giảu có hơn [tất cả các vùng khác trên hành tinh này]; trong khi nhiều quốc gia ở Nam bán cầu còn đang đối đầu với nạn đói. Điều này không chỉ sai sót về mặt đạo đức, mà còn là nguồn gốc của các vấn đề to lớn. Vì vậy, một số quốc gia giàu có nào đó phải nhìn lại và xem xét lối sống của mình; họ nên cảm thấy mãn nguyện với những gì họ có.

Một lầnNhật Bản, mười lăm năm trước đây, tôi đã phát biểu với những người Nhật là việc các bạn suy diễn rằng nền kinh tế của bạn phải lớn mạnh và sự tiến bộ vật chất phải xảy ra trong mỗi năm là một sai lầm lớn. Một ngày nào đó, các bạn có thể thấy nền kinh tế của mình trở nên eo hẹp hơn. Bạn phải chuẩn bị tinh thần để khi điều này xảy ra, nó sẽ không trở thành một thảm họa trong tâm tư các bạn. Một vài năm sau đó, tình trạng này đã thật sự xảy ra ở Nhật Bản.

Lối sống của một số người quá xa hoa. Không trộm cắp, không bóc lột, và không lưởng gạt, họ có rất nhiều tiền của. Từ quan điểm về sự quan tâm cho bản thân họ thì không có gì sai trái, miễn là phương tiện thu nhập của họ không trái với đạo đức. Tuy nhiên, từ quan điểm về sự quan tâm đến người khác, mặc dù không có gì sai trai đối với họ; nhưng về khía cạnh đạo đức, đây là điều không tốt đẹp gì khi những người khác phải đối diện với nạn đói. Nếu mọi người đều có cùng lối sống xa hoa thì được; nhưng cho đến khi điều này xảy ra, cách sống tốt hơn mà ta nên áp dụng là [cảm thấytoại nguyện hơn với những gì mình có. Như tôi đã thấy ở Nhật Bản, Hoa Kỳ và những xã hội giàu có hơn, điều cần thiết ở các nước này là một chút thay đổi về lối sống.

Tại nhiều quốc gia, một gia đình có những hai, đôi khi ba chiếc xe hơi. Hãy tưởng tượng ở Ấn Độ và Trung Hoa, hai quốc gia này có một dân số phối hợp hơn hai tỷ người. Nếu hai tỷ người đòi hỏi hai tỷ chiếc xe hơi hay hơn nữa, điều này sẽ rất khó khăn. Chúng ta sẽ có một vấn đề và khó khăn to lớn về nhiên liệu, tài nguyên thiên nhiênvật chất, và v.v… Điều này sẽ rất phức tạp.

Quan Tâm về Môi Trường

Một khía cạnh khác về lối sống đạo đức là sự quan tâm đến môi trường, thí dụ như việc sử dụng nước. Sự đóng góp của tôi có thể là ngờ nghệch, nhưng trong nhiều năm qua, tôi không bao giờ tắm trong bồn tắm, mà chỉ tắm bằng vòi hoa sen. Một bồn tắm cần rất nhiều nước. Có thể là tôi ngớ ngẩn, vì mỗi ngày tôi tắm hai lần, vì thế khối lượng nước mà tôi dùng sẽ như nhau. Dù sao đi nữa, về vấn đề đèn điện, thí dụ vậy, tôi luôn luôn tắt đèn khi ra khỏi phòng. Vì vậy, tôi có một sự đóng góp nhỏ cho nền sinh thái. Thế nên một đời sống đạo đức bắt nguồn từ ý thức trách nhiệm toàn cầu.

Cách Giúp Đỡ Người Khác

Về việc giúp đỡ người khác như thế nào thì có nhiều cách, phần đông tùy thuộc vào hoàn cảnh. Khi tôi còn trẻ, bảy hay tám tuổi, lúc tôi đang tu học, vị giáo thọ của tôi là Ling Rinpoche luôn luôn giữ một cây roi. Vào lúc ấy, người anh kế của tôi và tôi học chung với nhau. Đúng ra là có hai cây roi, một cây roi màu vàng – cây roi thánh, dành cho vị Đạothánh nhân. Nếu bạn dùng cây roi thánh, tôi không nghĩ là có bất cứ một cơn đau thánh thiện nào. Việc này có vẻ như một phương pháp khắt khe, nhưng thật ra nó rất hữu hiệu.

Nói cho cùng thì một hành động giúp ích hay gây hại tùy thuộc vào động cơ. Phát xuất từ sự quan tâm chân thành cho phúc lợi lâu dài của người khác, các phương pháp có khi khắc nghiệt, có khi nhẹ nhàng. Đôi khi ngay cả một lời nói dối nhỏ nhặt cũng có thể giúp ích. Thí dụ, bạn biết là một người bạn thân, một người cha hay mẹ của một người bạn ở một nước khác có thể đang bệnh nặng hay sắp chết, nhưng bạn biết rằng nếu bạn nói với người bạn là cha hay mẹ của họ sắp chết, họ sẽ rất bối rốilo lắng và có thể ngất xỉu. Thế nên bạn nói, “Họ không sao.” Nếu bạn một trăm phần trăm không muốn làm cho người kia bối rối, thì trong trường hợp này, nếu như nhìn từ khía cạnh quan tâm cho bản thân mình thì một lời nói dối là trái với đạo lý, nhưng từ quan điểm của người kia, nó có thể là điều thích hợp nhất.

Các Phương Pháp Bạo Động đối đầu với Bất Bạo Động

Thế thì làm thế nào để giúp đỡ người khác một cách hữu hiệu nhất? Điều này không dễ. Chúng ta cần có trí tuệ, cần một ý thức sáng suốt về hoàn cảnh và sự uyển chuyển để sử dụng những phương pháp khác nhau, tùy theo những trường hợp khác nhau. Quan trọng nhất là động cơ của mình: ta cần có sự quan tâm chân thành đối với người khác.

Thí dụ, một phương pháp bạo động hay bất bạo động tùy thuộc rất nhiều ở động cơ. Mặc dù một lời nói dối vô hại tự nó là một điều bạo động, nhưng dựa trên động cơ thì nó có thể là một phương tiện giúp đỡ người khác. Vì vậy, theo quan điểm ấy, nó là một phương pháp bất bạo động. Trái lại, vì ta muốn lợi dụng người khác nên ta tặng họ một món quà. Ở bề ngoài, đây là điều bất bạo động; nhưng nói cho cùng thì động cơ của ta là muốn lừa đảo người kia và lợi dụng họ, đó là một phương pháp bạo động. Thế thì bạo động hay bất bạo động tùy thuộc vào động cơ. Tất cả các hành vi của con người đều dựa vào động cơ. Nó cũng một phần nào phụ thuộc vào mục tiêu, nhưng nếu mục đích của ta chỉ là đạt được mục tiêu và động cơ của ta là tâm sân hận, thì đây là điều khó khăn. Vì vậy, nói một cách rối ráo thì động cơ là điều quan trọng nhất.

Hòa Hợp Liên Tôn Giáo

Từ cuộc thảo luận của chúng ta hôm nay, điều quan trọng nhất mà quý vị nên rút tỉa và mang về nhà là hãy cố gắng phát triển tâm bình an. Đây là điều mà chúng ta phải nghĩ đến và cưu mang trong lòng mình. Hơn nữa, nếu có một số người trong đại chúng theo tôn giáo và là tín đồ, một trong những điều mà tôi nhấn mạnh là hãy luôn luôn giữ gìn sự hòa hợp tôn giáo. Tôi nghĩ rằng tất cả các tôn giáo lớn, có thể không kể những tôn giáo nhỏ thờ phượng mặt trời hay mặt trăng, vì họ không có nhiều triết lý, nhưng hầu hết những tôn giáo lớn có một số triết lý hay thần học, và vì các tôn giáo này dựa vào một triết lý nào đó, nó đã được duy trì hàng nghìn năm. Tuy nhiên, bất kể các triết lý khác biệt nhau ra sao, tất cả các tôn giáo đều xem tu tập cao điểm nhất là việc thực hành lòng từ ái và bi mẫn.

Với lòng bi mẫn, sự tha thứ sẽ tự động phát sinh, và rồi lòng khoan dungtoại nguyện cũng sẽ phát khởi. Với ba yếu tố này, ta sẽ được hài lòng. Đây là điều thông thường đối với tất cả các tôn giáo. Những điều này cũng quan trọng để mở rộng các giá trị căn bản của con ngườichúng ta đã đề cập đến. Vì vậy, đối với vấn đề này, tất cả các tôn giáo của chúng ta đều hữu ích, vì chúng khuyến khích những điều căn bản tạo dựng nên hạnh phúc, bằng cách hướng dẫn con người sống một cuộc đời đạo đức. Vì tất cả các tôn giáo mang cùng một thông điệp, nên chúng đều có cùng tiềm năng để giúp ích cho nhân loại.

Vào những thời điểm và địa điểm khác nhau, các giáo thuyết khác nhau đã ra đời. Đây là điều cần thiết. Các thời điểm, nơi chốn và cách sống khác nhau xảy ra do sự khác biệt trong môi trường và vì vậy, sự khác biệt về tôn giáo bắt đầu phát triển. Các ý tưởng tôn giáo nào đó thích hợp cho mỗi một thời điểm khác nhau, vì thế, chúng [đã được con người vào thời đó tiếp nhận]. Vì vậy, mỗi một tôn giáo tồn tại hàng nghìn năm có những truyền thổng riêng của họ. Chúng ta cần có các truyền thống đa dạng phong phú này, vì chúng phục vụ cho những loại người khác nhau. Một tôn giáo không thể phù hợpđáp ứng nhu cầu cho tất cả.

Vào thời Đức Phật tại thế, đã có nhiều truyền thống khác với Phật giáoẤn Độ. Đức Phật không hề có ý cải đạo toàn thể dân Ấn Độ theo đạo Phật. Các tôn giáo khác cũng tốt thôi. Thỉnh thoảng, họ có những cuộc tranh luận với nhau. Đặc biệt là sau thời của Đức Phật, các đạo sư đã tranh luận với nhau qua nhiều thế kỷ. Những cuộc tranh luận này rất hữu ích, đặc biệt là trong lĩnh vực tri thức luận. Một học giả từ một truyền thống nào đó sẽ khảo sát triết lý và quan điểm của một tôn giáo khác một cách gắt gao, và điều này khiến cho mọi người suy tư về tôn giáo của mình, về truyền thống và cách tranh luận của họ. Điều này tự nhiên sẽ đưa đến sự tiến triển. Trong vài trường hợp, có lẽ các cuộc tranh luận này đã tạo ra một chút bạo động và đó là điều không may; nhưng nói chung, việc tranh luận là một sự phát triển lành mạnh.

Ấn Độ là một thí dụ rất tốt về sự bao dung đối với tôn giáo như một truyền thống, trải qua bao nhiêu thế kỷ, và nó vẫn sống độngquốc gia này. Đây là một mô hình tốt cho cả thế giới.

Vào thời xưa, con người sống cô lập và như vậy cũng tốt thôi, nhưng bây giờ chúng ta đã sống trong một hoàn cảnh khác. Thí dụ ở Luân Đôn – hầu như đó là một xã hội đa tôn giáo. Thế thì sự bao dung đối với các tôn giáo rất quan trọng. Vì vậy, đối với những ai có niềm tin với một tôn giáo, thì sự hòa hợpkhoan dung rất quan trọng. Khi nào các bạn có cơ hội, xin hãy góp phần vào lĩnh vực này.

Nottingham, Anh quốc, tháng Năm 2008, Alexander Berzin sao chép, chuyển dịch từng đoạn và hiệu đính sơ.

(Study Buddhism by Berzin Archives)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14782)
Trong Phật giáo, nghiệp nói về những xung động. Căn cứ vào những hành động ta đã làm trong quá khứ, những xung năng khởi lên trong tâm ta...
(Xem: 14758)
Con đường giác ngộ không phân biệt giới tính, giai cấp, màu da, chủng tộc, tu sĩ hay cư sĩ... Thích Nhật Từ
(Xem: 17790)
Theo triết lý nhà Phật, Tâm là chủ thể tạo tác ra mọi thứ (Vạn pháp do tâm tạo), trong đó có tướng. Tâm là nhân mà pháp là quả.
(Xem: 15472)
Tiếng Nói Của Phật Pháp và Tương Lai Phật Giáo - Jack Petranker - Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 38469)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 26570)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
(Xem: 39503)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 50613)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 38590)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 34875)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 18186)
Với Đức Phật, vì tình thương vô hạn đối với chúng sanh nên Ngài đã hy sinh tất cả để tìm cầu Thánh đạo. Sau khi đã ngộ đạo, Ngài lại chuyển vận bánh xe pháp...
(Xem: 16339)
Tam vô lậu học - Giới, Ðịnh, Tuệ là phương tiện duy nhất để vượt thoát bến mê sinh tử... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 42227)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 39058)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 35425)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 17387)
Con đường đến giải thoát luôn gắn liền với tuệ giác. Thân này bất tịnh, vô thườngphi thực là một tuệ giác quan trọng, không thể thiếu trong chiêm nghiệm...
(Xem: 46363)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 17045)
Chư Phật Như Lai đã lìa mọi cái thấy, mọi tưởng, nên tâm không chỗ nào không hiện diện. Tâm chân thật ấy là tánh của tất cả các pháp.
(Xem: 28393)
Những người Phật tử chúng ta phải là những người Phật tử của thế kỷ 21, có nghĩa là Phật tử với kiến thức đầy đủ về Phật Pháp, điều này rất căn bản.
(Xem: 18903)
Trong kinh điển Phật giáo, danh và thực là hai phạm trù được đề cập, phân tích cặn kẽ. Danh là tên gọi, hình thức bên ngoài. Thực là phẩm chất, nội dung bên trong.
(Xem: 17491)
Bồ đề tâm là vua các phép lành. Phát Bồ đề tâm là điều tối cần thiết của một đệ tử Phật. Có nhiều bản văn của chư Tổ viết để khuyên người phát tâm vô thượng ấy.
(Xem: 17019)
Thời Thế Tôn tại thế, Ngài rất chú trọng đến phận sự an cư mùa mưa của chư Tăng. Đặc biệt nhất là trong ba tháng mùa mưa ở rừng Icchànangala, Ngài đã nhập thất...
(Xem: 17449)
Trong kinh điển Phật giáo, có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một số câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc...
(Xem: 16431)
Vì mọi hiện tượng tâm lý tinh thầnvật lý vật chất không có cái gì có một chủ thể độc lập hay thường còn cả, nên nó là “vô thường”, nó là “vô ngã”, không có ta.
(Xem: 16774)
Tình yêu thươngnăng lực vô song, giúp bạn không còn cảm xúc sợ hãi. Một khi bạn phát triển được tình yêu thương (tâm Đại từ) thì sẽ không còn chỗ cho sự sợ hãi.
(Xem: 30671)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 16853)
Chúng ta cũng nên biết: “Vô thường thì vô ngã”, tại sao? Vì thân tâm con người gồm có sắc và tâm, Sắc là thân do Bốn Đại “Đất, Nước, Gió, Lửa” hợp lại mà thành...
(Xem: 18394)
Áo nghĩa thư (Upaniṣad) còn được biết với một tên gọi khác nữa, đó là Vedānta, vì nó được xem là phần tột cùng của Phệ-đà... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 18336)
Chính Đức Phật đã quy chuẩn cách dùng ngôn ngữ hay tiếng nói địa phương trong việc truyền đạt giáo lý... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 17291)
Thực ra luân hồi sanh tử không chỉ vậy! Luân hồi sanh tử còn là tiến trình tâm trong mỗi sát-na... Đỗ Hồng Ngọc
(Xem: 18033)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Một hôm vào buổi sáng, Tỳ Kheo Nan Đà mặc áo sặc sỡ, đi giày viền vàng, lại vẽ mặt, trông rất kỳ quặc...
(Xem: 16986)
Đại Vương nên biết thân người như tuyết đọng, rồi sẽ tan rã, cũng như ngói đất sẽ tan hoại không thể giữ lâu mãi mãi...
(Xem: 23317)
Vì luôn khế hợp với chân lý của cuộc đời, nên giáo pháp của Đức Phật cũng như một bánh xe có thể chuyển vận hướng về phía trước, di chuyển, lan tỏa đến nhiều xứ sở...
(Xem: 16874)
Phật giáo cho rằng tất cả những mâu thuẫn, nội kết, xung đột trong phạm vi cá nhân hay xã hội đều được phát sinh từ ba độc tố trong tâm thức, đó là tham, sân, và si.
(Xem: 17368)
Căn cứ trên khái niệm về Tính không nghĩa là Quang Minh khách thể, và cũng căn cứ khái niệm về Quang Minh chủ thể, chúng ta cố gắng phát triển một sự lí hội thông hiểu...
(Xem: 17540)
Vô ngãhình thức đối nghịch với cái ngã. Cái ngã thì sanh lão bệnh tử, biến dị, khổ ưu, vô thường. Trái lại vô ngã được quan niệm như là bất sanh bất diệt...
(Xem: 16954)
Con đường tìm đạo, tự tu tự chứng đến khi đắc đạo của đức Phậthành trình lắm chông gai với lòng kiên trì quyết thắng là một nỗ lực phi thường.
(Xem: 15640)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ, lúc ấyTỳ Kheo Cù Ba Ly (có sách dịch là Cù Ca Lê) đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật rồi thưa...
(Xem: 17929)
Một hành động có ba phần: Động lực (ý nghiệp) thúc đẩy chúng ta nói (khẩu nghiệp) và hành động (thân nghiệp).
(Xem: 17291)
Đạo đức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo, tác giả: Peter Harvey, Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 17102)
Tâm vô lượng là tâm rộng lớn không thể tính lường được. Tâm vô lượng không những làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, dẫn sinh vô lượng phúc đức...
(Xem: 29363)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27562)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 18080)
Đối với Đức Phật thì tất cả mọi hiện tượng đều không ngừng hình thành, không có một ngoại lệ nào cả, vì thế chúng không hàm chứa bất cứ một thực thể cố định hay bất biến nào.
(Xem: 16033)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hóa dân gian như thành ngữ ăn chay niệm Phật...
(Xem: 15277)
Cố vận động một phong trào dùng lại từ Bụt thay từ Phật đã không thăng tiến được một phương diện nào, không làm cho Phật Giáo Việt Nam phát triển mạnh hơn, cao hơn...
(Xem: 22898)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14715)
Thật ra, danh từ Bụt không phải là một danh từ mới, mà vốn đã được tổ tiên nhiều đời người Việt sử dụng từ lúc lập quốc đến nay, gần cả hai ngàn năm...
(Xem: 54956)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 14061)
Phật giáo là “chân lý thực tại”, mà cốt lõi chính là đạo đứcgiới luật làm nền tảng. Khi Phật còn tại thế, ngài chế giới là để ngăn ngừa sự bại hoại của tăng đoàn.
(Xem: 13176)
Chân Như vừa huân tậphai mặt ‘bên trong’ và ‘bên ngoài’. ‘Bên trong’ là huân tập trong tâm hành giả. ‘Bên ngoài’ là huân tập từ bên ngoài, tức là từ chư Phật, Bồ-tát...
(Xem: 14065)
Rõ ràng, trong các mối quan hệ của con người thiết lập, thì mối quan hệ thầy đối với trò có một vai trò quan trọng trong đời sống thăng tiến tri thứcchuyển hóa tâm linh...
(Xem: 15407)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
(Xem: 13093)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19240)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24434)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15637)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37668)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13380)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13014)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant