Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tổng quan về Phật giáo Thế giới

25 Tháng Ba 201910:08(Xem: 3335)
Tổng quan về Phật giáo Thế giới

Tổng quan về Phật giáo Thế giới

 

Phật giáo là tên gọi giáo pháp của Đức Phật Cồ-Đàm, thường được các tín đồ gọi là Phật pháp. Được thành lập bởi Đức Phật Thích Ca (560-480 TTL) ở miền Bắc Ấn Độ, sau đó được Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.

 

1) Các điểm nổi bật của Phật giáo

 

Bởi vì Phật giáo phát triển tại các xứ Á Châu,  người Tây phương đương nhiên nhìn nó qua lăng kính văn hóatâm lý của riêng họ. Các điểm hấp dẫn của Phật giáo là chủ trương thực nghiệm của Đức Phật, hướng đi tâm linh thực tế và đa dạng. Lý thuyết về tâm lý con người đặt nền tảng trên trách nhiệm cá nhân rất thích hợp với chủ nghĩa cá nhân của Tây phương. Những giáo thuyết về luân lý, lòng bi mẫný chí lợi tha rất tương đồng với truyền thống Do-thái Cơ-đốc giáo Tây phương. Khái niệm về nghiệp, luật nhân quả trong cả hai lãnh vực tâm lýtrách nhiệm cá nhân cũng rất phù hợp với định luật tác động và phản tác động của khoa học. Và đường hướng theo chủ nghĩa kinh nghiệm phổ cập của Phật giáo được tâm hồn người Tây phương chấp nhận. Tuy nhiên, đồng thời Phật giáo cũng có những yếu tố tương phản với cốt lõi văn hóa Tây phương.Trong khi Đức Phật dạy là hạnh phúc có thể tìm được qua sự tiết chế dục vọng, văn hóa Mỹ (đại diện cho Tây phương) lại dạy là hạnh phúc nằm trong sự thỏa mãn lòng mong cầu. Trong khi Tây phương dạy lòng tự quyết và sự theo đuổi ham muốn, Phật giáo dạy xả kỷ và lợị tha. Có sự đối chọi giữa khuynh hướng thoát tục của Phật giáo và khuynh hướng nhập thế của người Mỹ hiên đại. Ngay cả trong Phật giáo cũng có sự đối kháng giữa hai hướng đi thiền định và học tập giáo lý, trong tất cả các tông phái.

 

Phật giáo rất bao dung, đó là điểm luôn luôn thu hút người Tây phương. Phật giáo có kho giáo lý (rất tốt) nhưng không bao giờ muốn cưỡng ép hay lên lớp người khác. Người ta cũng rất ngưỡng mộ hệ thống công lý của Phật giáo, theo đó thì ai gieo nhân nào sẽ gặt quả đó. Thiện chí sẽ được tưởng thưởng và ác ý sẽ bị trừng phạt đích đáng. Hệ luân lý cao thượng của Phật giáo được nhiều người tán thán. Không ai có thể bài bác giá trị của Bốn Sự ThậtCon Đường Bát Chánh.

 

Yếu tố quan trọng nhất của Phật giáo được diễn tả trong nhiều kinh điển Đại thừa như kinh Pháp Hoakinh Hoa Nghiêm. Đó là Đức Phật không phải chỉ cứu vớt chúng sanh rồi sau đó để họ đóng vai trò phụ thuộc hay phục tùng - mà thật ra tâm nguyện của Ngài là giúp đỡ họ thành Phật, nghĩa là bằng như Ngài không khác. Đây là ưu điểmtính cách mạng và duy nhất của Phật giáo, không thấy có trong các tôn giáo khác.

 

2) Chi nhánh và Truyền thống

 

Nhánh Phật giáo Nam tông hay Phật giáo Trưởng Lão nổi lên ở miền Nam Ấn Độ rồi lan qua Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan và Campuchia - cũng gọi Phật giáo Nguyên thủy. Trong trường phái nầy, hành giả gắng tu tập để thành A-la-hán, tức là vị thánh đã chiến thắng dục vọngngã chấp, đạt giải thoát cho riêng mình. Bởi vì chỉ nhằm đạt giải thoát cá nhân, hệ phái nầy bị các xứ Phật giáo miền Bắc chê là Tiểu thừa (xe nhỏ). Nhánh Phật giáo miền Bắc Ấn, gọi là Đại thừa, phát triển và lan qua Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Quốc, Việt NamTriều Tiên. Trái với Phật giáo Nguyên thủy chủ trương bảo thủ cứng nhắc, Đại Thừa uyển chuyển thích nghi với nhu cầu của chúng sanhcăn bản dân tộc, văn hóatrình độ khác nhau. Lý tưởng của Đại thừatrở thành vị Bồ-tát, sẵn sàng hy sinh bản thân để cứu giúp chúng sanh đang chìm đắm trong vô minhtuyệt vọng, kể cả với cái giá phải xả bỏ quả Bô-đề Vô thượng cho riêng mình (xem “Bồ-tát Địa Tạng”)..

 

Bởi vì mỗi môn pháigiáo pháp đều là phương tiện thích ứng với một nhóm người, chúng chỉ hoàn hảo đối với các đối tượng đó, tại một thời điểm nào đó. Hãy xem qua lời bình của ngài D.T. Suzuki: "Thần học Phật giáolý thuyết bao gốm nhiều loại kinh nghiệm trong Phật giáo có vẽ như mâu thuẫn với nhau. Thật ra, lịch sử Phật giáo Trung quốc là một chuỗi các cố gắng nhằm dung hòa những trường phái đối kháng nhau. Có nhiều cách phân loại và dung hòa được đề nghị ...đã đi đến kết luận: Phật giáo mở cho ta nhiều cánh cửa đi vào chân lý, bởi lẽ có nhiều loại người, nhiều loại tánh người và môi trường khác nhau do sự sai biệt về nghiệp quả. Điều nầy được chính Đức Phật nêu lên và Ngài dạy rằng chỉ cùng một loại nước mà bò cái uống vào thành sữa ngọt trong khi rắn hổ mang uống vào thành nọc độc chết người – cho nên vị lương y phải cho thuốc tùy theo bịnh.Đây là thuyết "Phương tiện Thiện xảo." của Đức Phật..

 

3) Hiện tình Phật giáo

 

Thế kỷ 20 đem lại nhiếu biến chuyển quan trọng cho Phật giáo. Cộng Sản chiếm quyền đưa tới sự tàn phá rộng khắp, nhứt là cho các Tăng đoàn. Trước hết là ở phần Á châu của Liên bang Sô-viết và Mông cổ, rồi kế tiếp là Bắc Hàn, Trung Quốc, Tây Tạng, Việt Nam. Lào và Cao Miên. Các truyền thống Phật giáo đều bị hủy hoại (để rồi vào cuối thế kỷ niềm tin lại được tái sinh, Trung quốc là một trường hợp đáng chú ý). Khoảng thời gian nầy có sự phục hồi hoạt độngtrở về đất đai đã bị chiếm đoạt từ lâu. Đáng chú ý là ở Nam Dương và Ấn Độ, Phật giáo đã tái hiện và hồi phục được sự ủng hộ của dân chúng. Đáng ghi nhậnPhật giáo ngày nay có nhiều môi trường phát triển mới. Ở Âu Châu, Phật giáo Nguyên thủy vào đầu thế kỷ đã thành lập, tuy còn ở qui mô nhỏ. Đại thừa Phật giáohình thức Thiền đã thu phục được một số tín đồ đáng kể ngoài cộng đồng di dân Á Châu,.vào thập niên 1950, nhứt là tại Bắc Mỹ. Hoạt động đắc lực của các sư Tây Tạng lưu vong đã đem lại sự ủng hộ cho Phật giáo Tây tạngĐầu thập niên 1980, đã có hàng trăm nhóm tín đồtrung tâm Phật giáo rải rác khắp nơi trên thế giới Tây phương. Phần lớn những họat động nầy tuy còn ở qui mô nhỏ, nhưng khá nhiều trường hợp có cơ sở vững chắc.

 

Hình ảnh Phật giáo ở người Tây phương có khuynh hướng tập trung nơi sư đồng hóa cốt yếu với các lý tưởng cao đẹp của Phật giáo. Thường thì người Tây phưong chú trọng về tâm linh hơn là vấn đề tu tập qua luyện tâm và giới luật, hay giáo thuyết của các giảng sư. Kết quả sự tu tập được họ diễn tả là nhằm đạt được, trong đời nầy, một kinh nghiệm tâm linh trực tiếp. Nhưng đối với phần nhiều Phật tử Á châu, hình ảnh Phật giáo nầy chỉ là một phần nhỏ của những gì đến với tâm họ. Phật giáo là hơn nhiều so với thiền định, kiết hạ, tĩnh lặng và tu tâm - nhiều hơn tất cả những gì nêu lên bởi các triết giahọc giả. Mặt kia của Phật giáo có nhiều hình thức, nhưng nếu chỉ tập trung vào hai quyển kinh A Di Đà, ta có thể nói rằng xuyên qua lịch sử, hai bộ kinh nầy được trân trọng bởi rất nhiều Phật tửniềm tin vào một số đức Phật siêu nhiêntrông cậy vào sự cứu độ của các Ngài. Như vậy, trong số người tự nhận là Phật tử, có những người hướng về một Đức Phật hay nhiều Đức Phật như là nguồn cảm hứng hay dẫn đạo - và có những người đặt căn bản đức tin và sự tu tập của họ trên sự cứu độ của các Đức Phật. Nếu chúng ta nói về hạng người sau, đây là lãnh vực của Phật giáo đức tinphụng thờ, gọi là Tịnh độ tông - môn phái đang phổ biếnthành công nhất trong cộng đổng Phật giáo Á châu ."

 

Thích Phước Thiệt phỏng dịch đề mục “Buddhism”, trong “The Seeker’s Glossary: Buddhism” – 22/3/19

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 163)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 215)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 409)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 308)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 338)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 621)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 678)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 637)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 685)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 599)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 541)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 686)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 702)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 492)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 574)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 668)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 588)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 591)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 710)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 703)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 768)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 791)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 768)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 961)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 828)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1386)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 913)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1078)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1061)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 991)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 980)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1122)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1398)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1744)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 971)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1158)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 969)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 817)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 947)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 972)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1394)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1142)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1173)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 924)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1068)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1518)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1398)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1390)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 980)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1374)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1288)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1252)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant