Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Lạ…

25 Tháng Tư 201910:07(Xem: 3431)
Lạ…

LẠ…

Minh Mẫn

Cái gì chưa biết,  gặp lần đầu thấy cũng lạ Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ Cái gì chưa bao giờ nghe, mới nghe lần đầu thấy cũng lạ…

Đành là thế, nhưng thế cũng chưa phải LẠ, có những cái từng biết, từng gặp, từng nghe mà vẫn thấy Lạ! Trong cuộc sống có nhiều cái lạ, quá lạ;

Thường lạ trở thành Lạ thường, nhưng khi xét lại vẫn luôn là Lạ.

Tàu lạ đâm ngư dân, không phải không biết tàu đó của ai, nhưng lạ là từng thề thốt “môi hở răng lạnh, thắm thiết 16 chữ vàng” thế mà vẫn giết nhau mới Lạ.

                                                      ***

Khi ấy, đức Phật đang ở tại thành Vương Xá, vào buổi sáng sớm đi khất thực, nhìn xa xa về phía núi Kê Túc thấy có một chàng con nhà trưởng giả tên Thi-ca-la-việt đang chải đầu, súc miệng, rửa mặt, thay y phục sạch sẽ, rồi hướng về phương đông lạy 4 lạy, hướng về phương nam, phương tây, phương bắc cũng lạy mỗi phương 4 lạy, lại hướng lên trời lạy 4 lạy, hướng xuống đất lạy 4 lạy. Đức Phật liền đến nhà người ấy, hỏi: “Con đang làm gì vậy?”  Thi-ca-la-việt đáp: “Con ở đây lễ lạy sáu phương.” Đức Phật hỏi: “Lễ lạy sáu phương như vậy là theo pháp gì?”  Thi-ca-la-việt đáp: “Khi cha mẹ còn sống có dạy con mỗi buổi sáng sớm phải lễ lạy sáu phương, con cũng không hiểu để làm gì. Nay cha mẹ đã qua đời, con không dám trái lời dạy.” Phật nói: “Cha mẹ con dạy việc lễ lạy sáu phương không phải dùng thân lễ lạy như thế.Con đã hiểu sai ý của cha  mẹ con rồi.” Thi-ca-la-việt liền quỳ xuống thưa: “Xin Phật từ bi vì con giảng giải ý nghĩa việc lễ lạy sáu phương.” Phật dạy: “Được, con hãy lắng nghe cho kỹ! Hãy để tâm vào lời dạy, ta sẽ vì con giảng   rõ.  “Hàng trưởng giả, những người trí thức, nếu như có thể trừ dứt sáu pháp xấu ác, đó chính là lễ lạy sá phương. “Những gì là sáu pháp xấu ác? Một là tham uống rượu, hai là mê cờ bạc, ba là thích ngủ sớm dậy trễ, bốn là ưa mời thỉnh khách khứa, năm là thích kết giao cùng kẻ xấu, sáu là ham thích việc giết hại, lừa gạt, dan díu vợ người. Nếu có thể trừ dứt sáu việc ấy,đó là lễ lạy sáu phương.  “Nếu con không trừ được sáu việc ấy thì sự lễ lạy nào có ích gì? Lại còn lan tràn tiếng xấu, việc nhà rối loạn, tiền của tiêu tốn, thân thể yếu đuối, gầy còm, việc lành ngày càng mai một, kẻ xa người gần không còn ai kính trọng! Phật lại bảo Thi-ca-la-việt: “Bảo con lễ lạy phương Đông là có ý nghĩa phụng dưỡng  cha  mẹ…
“Lễ lạy phương Nam là có ý nghĩa người học trò phụng sự thầy…
“Lễ lạy phương Tây là có ý nghĩa vợ chồng đối đãi nhau theo lễ… 
“Lễ lạy phương Bắc là có ý nghĩa trong sự giao tiếp cư xử với thân thuộc, bạn bè, đôi bên …
“Lễ lạy phương dưới là có ý nghĩa người chủ và kẻ giúp việc cư xử với nhau trên tinh  thần trách nhiệm…
 “Lễ lạy phương trên là có ý nghĩa bổn phận của người cúng dường các bậc sa-môn, thiện tri thức. Nếu không làm được như vậy, dù lễ lạy cũng là vô ích.” Bấy giờ, Thi-ca-la-việt liền xin thọ trì Năm giới, ân cần lễ bái Phật…

Lần đầu tiên Thi Ca La nghe được giáo nghĩa sâu xa việc lễ lục phương, thầm nghĩ kể cũng LẠ.

                                                     ***

Suốt 45 năm khuyến giáo đồ chúng, hầu hết đệ tử của Ngài phát xuất từ Bà La Môn giáo;Một tôn giáo nặng đa thần, có đệ tử xuất thân từ Hỏa thần giáo, cũng có vị là Phiếm thần giáo…thế nhưng, họ đều lấy làm lạ trước một giáo pháp chưa từng có trong xã hội Ấn lúc bấy giờ. Phật dạy: “không có giai cấp trong giòng máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn”, một tuyên ngôn bình đẳng giai cấp trong xã hội bị ràng buộc 4 giai cấp một cách chặt chẻ mà tu sĩ, tôn giáoquần chúng buộc phải chấp hành, kể cũng Lạ. Cái Lạ nữa là ngoài 1250 Tỳ kheo trực thuộc Tăng đoàn thân cận Phật, còn vô số sa môn, rãi rác khắp thôn xóm, núi rừng, đa phần tăm tắp nghiêm trì giới luật, oai nghi tế hạnh làm nổi bậc khác hẳn giữa các đạo sĩ của các tôn giáo đương thời.Chinh vì  do thân hành nghiêm túc mà suốt 12 năm đầu, chưa có vị Sa môn nào phạm luật, Phật chưa giáo giới.Năm thứ 13, có hiện tượng pháp hữu lậu xuất hiện, Tăng đoàn ít có phần chứng đắc giải thoát, ngài Tu Đề Na là vị Tăng đã trở về với gia đình sống chung vợ con như lúc chưa xuất gia,từ đó đức Thế Tôn mới chế giới, áp dụng cho vị nào phạm giới để thanh tịnh hóa Tăng đoàntrang nghiêm giáo đoàn, làm chỗ dựa cho chư Thiênloài người. cho nên,Hán tạng gọi là “Thập cú lợi”, Pali gọi là “Thập lợi”. Mười điều lợi đó là:

 1. Chỉnh đốn Tăng già 2. Làm cho Tăng hoan hỷ 3. Khiến cho Tăng được an lạc 4. Giúp ngời chưa tin sanh lòng tin 5. Giúp người đã tin càng thêm bền vững 6. Điều phục những người khó điều phục 7. Làm cho người hỗ thẹn được an lạc 8 Đoạn nghiệp hữu lậu trong hiện tại 9. Đoạn trừ nghiệp hữu lậu trong tương lai 10. Khiến Chánh pháp trụ lậu lâu dài.

Chư Tăng phạm giới làm ảnh hưởng đến ba vấn đề tự thân người phạm trong việc tu tập, ảnh hưởng đại chúng và mất niềm tin với quần chúng:

1. Trở ngại con đường giải thoátquả chứng 2. Tổn thương đến sự hòa hợpan lạc của Tăng đoàn 3. Gây sự chê bai, hủy báng hay làm mất niềm tin đối với quần chúng.

Việc chế định giới luật là điều tất yêu để duy trì mạng mạch Phật pháp cũng chưa có gì lạ, Một cái Lạ là lúc đương thời, Phật vừa viên tịch khi  ấy, thầy tỳ kheo tên Bạt nan đà cũng có mặt, chợt phát biểu : “ lúc này chúng ta nên vui mừng chứ sao lại khóc lóc như thế. Như lai đã nhập diệt rồi, khỏe, chúng ta từ nay được tự do khỏi bị câu thúc hay ức chế gì nữa, muốn làm gì thì làm, mặc sức.”. Nghe những lời vô trí của tỳ kheo ấy, tôn giả Ca Diếp xót xa, lo lắng từ nay vắng bóng đức Đạo sư, không biết kỷ cương phép tắc của tăng chúng sẽ ra sao nữa ?Ngài bèn triệu tập 500 bậc La Hán cử ngài Ưu ba Ly trùng tụng 80 lần luật giới, toàn đại chúng nhất trí giữ nguyên không thêm bớt giới luật do đức Thế Tôn chế tác. Tuy nhiên, tùy hoàn cảnhlinh động châm chước những điều nhỏ nhặt. (Luật học đại cương).

Không quy định rõ giới nào là nhỏ, nhưng qua  nhiều lần trùng tụng, cả Nam và Bắc truyền đều thống nhất những giới trọng không hề sai biệt. Có một điều lạ, tuy là giới trọng không thay đổi, nhưng trong thời gian càng xa Phật, giới trọng lắm khi bị xem nhẹ hơn điều nhỏ, cái mà linh hoạt gia giảm điều nhỏ thì giới trọng cũng bị linh hoạt gia giảm một cách linh tinh, từ đó,Ba La Di là giới mà một khi tu sĩ phạm xem như không còn giới thể của một vị Tăng, bị tẩn xuất khỏi cộng trụ giới.

Ba La Di là giới quan trọng của tu sĩ, ngày nay, việc sai phạm thường xuyên mà không thấy Tàm quý cũng là chuyện Lạ  trong nhà Phật. Sinh thời đức A Nan nằm mộng thấy 7 điều chẳng lành, đem trình với đức Phật:

KINH BẢY GIẤC MỘNG CỦA ANAN Hán dịch: Đời Đông Tấn_Thiên Trúc Tam Tạng TRÚC ĐÀM VÔ LAN Việt dịch: HUYỀN THANH A-Nan (Ānanda) ở tại nước Xá Vệ (Śrāvastī) có bẩy giấc mộng, nên đi đến thỉnh hỏi  Đức Phật.  Ngài A Nan, đệ nhất đại đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni trong 27 năm, khi còn trú tại thành Xá Vệ, ở phía Bắc Ấn Độ, Ngài đã có 7 giấc mơ kỳ lạ:

1. Mộng thấy lửa cháy đùng đùng trên mặt nước, những cột lửa nghi ngút tận trời cao. 2. Mộng thấy mặt trời biến mất, để lại thế giới Ta Bà chìm trong bóng tối. Thậm chí không có một vì sao trên bầu trời. 3. Các tăng ni, phật tử bị rơi xuống một cái hố sâu, để cho con người thế tục bước qua trên đầu. 4. Rất nhiều lợn rừng trong rừng rậm đào xới gốc cây Bồ Đề. 5. Mộng thấy A Nan đội đỉnh núi Tu Di trên đầu mà không hề thấy nặng. 6. Voi bố mẹ bỏ lại đàn con của mình. 7. Cái chết của sư tử, chúa tể rừng xanh. Những cánh hoa rơi trên xác con sư tử, tất cả thú vật đều bỏ chạy toán loạn. Không lâu sau, các con bọ bắt đầu xuất hiện trong cái xác và ăn thịt nó.

Những điềm mộng báo hiệu mạng mạch Phật pháp suy tàn sau khi đức Thế Tôn nhập Niết bàn; như thế cũng chưa lạ mà lạ là các trưởng tử Như Lai chú trọng bề ngoài, chú trọng áo mão xuênh xoang, tranh đua quyền cao chức trọng, chạy chọt giáo phẩm cao quý, hãnh diện vật chất cao sang…giữa lúc quần chúng thèm đói giáo pháp; quần chúng vùng sâu vùng cao ước mongbóng dáng Tăng sĩ hòa nhập vào đời sống bần khổ cùng họ.Sống nhờ bá tánh mà chả ai chịu khó đến với bá tánh cũng là chuyện hết sức Lạ. Còn vô số cái lạ khi (Giáo Hội) Phật Giáo Việt Nam được nhà nước hỗ trợ mọi mặt, phát triển bề nổi mà nội lực thiếu rèn luyện. Những bậc chuyên tu như đức Pháp chủ hay một số vị ẩn cư không đủ vực dậy những giới luật trong hàng Tăng chúng. Bản thân Ban Tăng sự dẫm chân tại chỗ, hơn 40 năm thống nhất mà Tăng sự chưa có kế hoạch chỉnh đốn Tăng già, củng cố nội lực, chưa có viện chuyên tu thực sự để có những sứ giả chân chánh ra phụng sự đạo. Phải chăng, những chức sắc trong GH không cần kiến thức, không cần chân tu,không cần giới luật, không cần năng động, miễn đáp ứngthừa hành tốt mọi công việc được giao, đó là chuyện Lạ trong một tổ chức không còn lạ hiện nay.

Một chuyện lạ là có vài người mặc áo tu sĩ và sau đó, cả trăm thiện nam tín nữa mặc áo Lam, từ miền ngoài đến xin Lòng thương xót của Chúa ở Giáo Điểm do cha Trương đình Long quảng cáo thiếu nghiêm túc, đa phần là những kẻ không hiểu Phật pháp, không có trình độ hiểu biết, trong khi, trước 1975 cũng như sau này, nhất là Làng Mai, một số tu sĩ khác đạo có trí thức, vẫn lặng lẽ quy y nhà Phật mà chả ai làm rùm beng, kể cũng Lạ.

Thế thì chả Lạ gì những hiện tượng bất bình thường trong PG để rồi quần chúng bức xức bêu rếu những tà sư giả danh làm ô nhục nhà Phật. Chư Tăng tùy nghi linh động với pháp thế gian để lấy lòng dẫn dắt quần chúng, phương tiện đó lâu dần biến thành tùy tiện bị chúng sanh dắt dẫn theo nhu cầu của họ mà không hay.Thế giới ngày nay, chánh tà bất phân, tà mạnh chánh yếu, chánh bị xem là tà, tà được xem là chánh. Tâm thế đảo điên, chính vì vậy nhiều bậc chân chánh đều ẩn thân hoặc im lặng trước làn sóng áp đảo tà tâm.Đó là chuyện lạ giữa cuộc sống được xem là không lạ hiện nay.

 

Minh Mẫn

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4040)
Kỳ thực, trên đời này không ai có thể khiến chúng ta đau khổ ngoài chính bản thân mình, và cũng không ai có thể mang lại hạnh phúc cho chúng ta ngoài bản thân mình ra…
(Xem: 5199)
Bài kinh "Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước" là bài kinh ngắn, trích trong Kinh Tăng Chi Bộ, chương Ba, phẩm Kusinàra.
(Xem: 4185)
Đã gần vào Hạ mà đức Thế Tôn vẫn chưa khuyên giải được mâu thuẫn giữa hai nhóm Tỳ-kheo đều là đệ tử của Ngài.
(Xem: 3247)
Cuộc sống giản đơn sẽ tháo bỏ cho chúng ta những gông cùm trách nhiệm do chính chúng ta tự đeo vào cổ, giúp chúng ta có nhiều thời gian hơn để sống với những người thân yêu.
(Xem: 6244)
Bài kinh "Thanh Tịnh" là bài kinh ngắn, Đức Phật giảng cho các vị Tỷ-kheo khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 5221)
Sa-môn (Samana), Tỳ-kheo (Bhikkhu) hay Bí-sô (Bhiksu) là những danh xưng chỉ cho vị tu sĩ Phật giáo.
(Xem: 4550)
Kinh Trung A-Hàm được dịch sang Hán đầu tiên vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ mười chín (383) do một nhóm các vị tăng nhân người Ấn Độ nói chung thực hiện.
(Xem: 6110)
Trung đạo (madhyamā-pratipad) là con đường tu tập được kinh nghiệm từ chính Đức Phật.
(Xem: 6000)
Tâm lý thường tình của con người là tò mò, ưa những điều lạ lùng, kỳ dị và khác thường vì họ đã quá quen với cuộc sống bình thường, nên ...
(Xem: 3785)
Chúng sinh trong cõi “Dục giới” luôn chạy theo tìm cầu để hưởng thụ năm thứ dục lạc nên gọi là ngũ dục. Ngũ dục, chính là năm thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc.
(Xem: 5918)
Tứ động tâm là bốn Thánh tích thiêng liêng của Phật giáo tại Ấn Độ, ghi dấu bốn sự kiện trọng đại trong cuộc đờisự nghiệp hoằng hóa của Đức Phật Thích Ca.
(Xem: 4559)
Về mặt ngôn từ, thì chữ “công đức” là được dịch nghĩa từ chữ “punna” trong tiếng Pali. Tiếng Anh dịch thành chữ “merit”.
(Xem: 4706)
Nguyên nhân của sanh tử được nêu rõ trong Thập nhị nhân duyên, thuộc giáo lý căn bản của Phật giáo.
(Xem: 3316)
tại gia hay xuất gia, chúng ta đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiếng, lễ lạy
(Xem: 6199)
Uẩn, thuật ngữ Pāli là khandha (Skt: skandha) thường được dịch sang tiếng Anh là ‘aggregates’ uẩn.
(Xem: 4839)
Ba-la-mật (pāramī or pāramitā) là các pháp hành để hoàn thiện nhân cách được nói đến trong kinh điểnchú giải, nhất là phần Hạnh Tạng thuộc Tiểu Bộ kinh.
(Xem: 3480)
Nói đạo Phật là đạo “cứu khổ ban vui” nhưng kỳ thực chẳng có ai ‘cứu’ mà cũng không ai ‘ban’ cho cả.
(Xem: 3408)
Mọi hiện tượng và sự vật trên thế gianhoàn vũ này không bao giờ độc lậptồn tại, mà do nhân duyên hòa hợp tạo thành.
(Xem: 5559)
Quan điểm thống nhất trong kinh điển là: sát sanh vi phạm giới luật đầu tiên và chiến tranh là sai lầm ngay cả khi chiến đấu cho mục tiêu phòng thủ hay tấn công.
(Xem: 4147)
Narayan Helen Liebenson, Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche và Blanche Hartman chia xẻ lời khuyên của họ về việc làm sao để ứng phó với các giai đoạn trầm cảm.
(Xem: 5929)
Niết-bàn là phước lạc tối thượng, một trạng thái hạnh phúc vĩnh cửu. Không thể trải nghiệm hạnh phúc của Niết-bàn bằng các giác quan mà bằng cách làm cho chúng tịch lặng.
(Xem: 5143)
Trong những bài pháp ngắn gọn, súc tích nhất để hướng dẫn tu hành khi chưa có giới bổn Patimokkha, Chư Phật đã chỉ ra con đường sống đạo,
(Xem: 3601)
Định hướng cuộc đời để đạt được mong muốn thích đángyếu tố quan trọng giúp cho ta thăng tiến trên đỉnh cao của sự giác ngộgiải thoát.
(Xem: 3678)
Hơn bao giờ hết, những bản dịch kinh điển rõ ràng dễ hiểu, được chú giải thận trọng, được thẩm định kỹ lưỡng trước khi đến tay người học Phật đang là một nhu cầu hết sức cấp thiết và quan trọng.
(Xem: 3650)
Nếu đời là vô thường, sự sống có giới hạn thì phải chăng con người ta khi sống nên có một chút ý nghĩa. Bạn ước mong gì?
(Xem: 3472)
Mong ước của tôi là chúng ta sẽ có dịp đồng hành cùng nhau trên hành trình tâm linh siêu việt của bạn.
(Xem: 5261)
“Tất cả những cảm thọ mà một người nhận chịu dầu đó là lạc thọ, khổ thọ hay vô ký thọ đều là kết quả của Nghiệp quá khứ, người nào quan niệm như vậy là tà kiến”.
(Xem: 3889)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương pháp giảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau.
(Xem: 4234)
Đất Phù Nam (Funan) bao trùm cả một phần Việt Nam, Căm Bốt (Cambodia), Mã Lai (Malaysia) và Thái Lan (Thailand).
(Xem: 5753)
Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo
(Xem: 3079)
Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta.
(Xem: 3017)
Đạo từ tâm sinh. Đi học đạo là học cho ta, để nhận chân được tự tâm, để tạo nên cái phẩm giá của ta
(Xem: 3764)
Người ngu si thiếu trí tuệ biến tự ngã của mình thành kẻ thù, lại tưởng kẻ thù của mình ở bên ngoài nhưng chính mình là kẻ thù của mình đó.
(Xem: 4778)
"Nầy các Tỳ Kheo, ta sẽ giảng dạy, và phân tích cho các ông nghe về con đường cao quý có tám phần. Khi ta nói, các ông hãy chú ý và lắng nghe."
(Xem: 3502)
Nếu tâm hồn biết thầm lặng kết “bạn đường” với thánh hiền tôn giáo, với các nhà hiền triết tâm linh, thì NĂNG LƯỢNG MẦU NHIỆM sẽ hiện hữu...
(Xem: 2981)
Có thể nói ngày nay, chiến tranh, hận thù, thương yêu, ghét bỏ, kỳ thị, náo động trên thế giới… đều do tà kiến mà ra.
(Xem: 4502)
Luật nhân quả có lẽ ai cũng biết và hầu như ít nhiều ai cũng tin. Tuy nhiên, để có được niềm tin không lay chuyển vào quy luật tự nhiêncông bằng ấy thì lại không dễ,
(Xem: 4631)
Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi đang ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức
(Xem: 3381)
Không ai có thể nói trước được chuyện gì sẽ xảy ra ở ngày mai, mặc dù ngày mai mặt trời vẫn lên.
(Xem: 3930)
Nhà Phật thường nhắc đến đạo lý sống Trung Đạo. Cái gọi là Trung Đạo chính là không đi theo hướng cực đoan, quá mức.
(Xem: 4666)
Nhiều trường phái Phật Giáo ngày nay vẫn tụng Kinh Pali, ngôn ngữ của Đức Phật lịch sử.
(Xem: 3475)
Hiện nay, quý vị trẻ thường thích thể hiện mình theo nhiều cách mà mọi người vẫn thường gọi chung chung là muốn khẳng định cái tôi.
(Xem: 3537)
Sắc thanh hương vị xúc pháp cấu thành thế giới của con người chúng taduyên sanh, vô tự tánh, bất khả đắcvô sở hữu
(Xem: 5078)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 4046)
Phật giáo cho rằng, mọi việc thành bại, li hợp ở đời đều không nằm ngoài nguyên tắc "nhân duyên quả báo".
(Xem: 3214)
Buông bỏ phiền não, trước hết là để giải tỏa mọi ưu tư, khiến người ta hạnh phúc.
(Xem: 2940)
Có những nhân quảnhân tạo trong đời này nhưng quả có khi phải qua đời sau hoặc những đời sau mới trỗ.
(Xem: 2975)
Sự quán sát, quán chiếu khởi từ danh tướng - danh là hương, là vị; tướng là những tính chất đặc trưng của chúng
(Xem: 3046)
Phật tử, tôi tâm đắc phần thuyết giảng về ái ngữ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
(Xem: 3040)
Ai cũng mong trong cuộc sống có rất nhiều niềm vui và thật ít nỗi buồn.
(Xem: 3408)
Con người bình thường, khỏe mạnh là một thể thống nhất hài hòa giữa hai yếu tố thân và tâm hay thể xác và tinh thần.
(Xem: 3943)
Người khéo tu lúc nào cũng nhớ quay lại mình, nhận ra và sống được với Tâm chân thật, ngoài ra tất cả đều vô thường hư ảo, không cần chú tâm làm gì.
(Xem: 5038)
Buông xả là một sự thực tập quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, cũng như con đường giải thoát của chúng ta.
(Xem: 2606)
Giá trị của tâm là sự thương yêuchân thực. Nếu một người mà tâm luôn tràn ngập tình thương đối với mọi người,
(Xem: 6054)
Cuộc sống hiện đại đưa đến nhiều vấn đề làm cho chúng ta phiền tâm mệt trí, thân tâm đều nặng nề.
(Xem: 2981)
Tầm quan trọng của một người là tính sáng tạo của tâm thức. Khi chúng ta đối xử với nhau như những người anh chị em, thì nó sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc.
(Xem: 3031)
Nếu tỉnh thức, bạn có thể tự đặt mọi câu hỏi. Năng lực của trí tuệ sẽ giúp bạn tìm thấy câu trả lời cho mọi vấn đề mình đang gặp mỗi ngày.
(Xem: 3223)
Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê.
(Xem: 3170)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
(Xem: 3229)
Thịnh suy nào cũng không quan trọng bằng nội tâm ta có dính mắc hay không, vì dính mắc đó là nguồn gốc luân hồi.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant