Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Lạ…

25 Tháng Tư 201910:07(Xem: 3429)
Lạ…

LẠ…

Minh Mẫn

Cái gì chưa biết,  gặp lần đầu thấy cũng lạ Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ Cái gì chưa bao giờ nghe, mới nghe lần đầu thấy cũng lạ…

Đành là thế, nhưng thế cũng chưa phải LẠ, có những cái từng biết, từng gặp, từng nghe mà vẫn thấy Lạ! Trong cuộc sống có nhiều cái lạ, quá lạ;

Thường lạ trở thành Lạ thường, nhưng khi xét lại vẫn luôn là Lạ.

Tàu lạ đâm ngư dân, không phải không biết tàu đó của ai, nhưng lạ là từng thề thốt “môi hở răng lạnh, thắm thiết 16 chữ vàng” thế mà vẫn giết nhau mới Lạ.

                                                      ***

Khi ấy, đức Phật đang ở tại thành Vương Xá, vào buổi sáng sớm đi khất thực, nhìn xa xa về phía núi Kê Túc thấy có một chàng con nhà trưởng giả tên Thi-ca-la-việt đang chải đầu, súc miệng, rửa mặt, thay y phục sạch sẽ, rồi hướng về phương đông lạy 4 lạy, hướng về phương nam, phương tây, phương bắc cũng lạy mỗi phương 4 lạy, lại hướng lên trời lạy 4 lạy, hướng xuống đất lạy 4 lạy. Đức Phật liền đến nhà người ấy, hỏi: “Con đang làm gì vậy?”  Thi-ca-la-việt đáp: “Con ở đây lễ lạy sáu phương.” Đức Phật hỏi: “Lễ lạy sáu phương như vậy là theo pháp gì?”  Thi-ca-la-việt đáp: “Khi cha mẹ còn sống có dạy con mỗi buổi sáng sớm phải lễ lạy sáu phương, con cũng không hiểu để làm gì. Nay cha mẹ đã qua đời, con không dám trái lời dạy.” Phật nói: “Cha mẹ con dạy việc lễ lạy sáu phương không phải dùng thân lễ lạy như thế.Con đã hiểu sai ý của cha  mẹ con rồi.” Thi-ca-la-việt liền quỳ xuống thưa: “Xin Phật từ bi vì con giảng giải ý nghĩa việc lễ lạy sáu phương.” Phật dạy: “Được, con hãy lắng nghe cho kỹ! Hãy để tâm vào lời dạy, ta sẽ vì con giảng   rõ.  “Hàng trưởng giả, những người trí thức, nếu như có thể trừ dứt sáu pháp xấu ác, đó chính là lễ lạy sá phương. “Những gì là sáu pháp xấu ác? Một là tham uống rượu, hai là mê cờ bạc, ba là thích ngủ sớm dậy trễ, bốn là ưa mời thỉnh khách khứa, năm là thích kết giao cùng kẻ xấu, sáu là ham thích việc giết hại, lừa gạt, dan díu vợ người. Nếu có thể trừ dứt sáu việc ấy,đó là lễ lạy sáu phương.  “Nếu con không trừ được sáu việc ấy thì sự lễ lạy nào có ích gì? Lại còn lan tràn tiếng xấu, việc nhà rối loạn, tiền của tiêu tốn, thân thể yếu đuối, gầy còm, việc lành ngày càng mai một, kẻ xa người gần không còn ai kính trọng! Phật lại bảo Thi-ca-la-việt: “Bảo con lễ lạy phương Đông là có ý nghĩa phụng dưỡng  cha  mẹ…
“Lễ lạy phương Nam là có ý nghĩa người học trò phụng sự thầy…
“Lễ lạy phương Tây là có ý nghĩa vợ chồng đối đãi nhau theo lễ… 
“Lễ lạy phương Bắc là có ý nghĩa trong sự giao tiếp cư xử với thân thuộc, bạn bè, đôi bên …
“Lễ lạy phương dưới là có ý nghĩa người chủ và kẻ giúp việc cư xử với nhau trên tinh  thần trách nhiệm…
 “Lễ lạy phương trên là có ý nghĩa bổn phận của người cúng dường các bậc sa-môn, thiện tri thức. Nếu không làm được như vậy, dù lễ lạy cũng là vô ích.” Bấy giờ, Thi-ca-la-việt liền xin thọ trì Năm giới, ân cần lễ bái Phật…

Lần đầu tiên Thi Ca La nghe được giáo nghĩa sâu xa việc lễ lục phương, thầm nghĩ kể cũng LẠ.

                                                     ***

Suốt 45 năm khuyến giáo đồ chúng, hầu hết đệ tử của Ngài phát xuất từ Bà La Môn giáo;Một tôn giáo nặng đa thần, có đệ tử xuất thân từ Hỏa thần giáo, cũng có vị là Phiếm thần giáo…thế nhưng, họ đều lấy làm lạ trước một giáo pháp chưa từng có trong xã hội Ấn lúc bấy giờ. Phật dạy: “không có giai cấp trong giòng máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn”, một tuyên ngôn bình đẳng giai cấp trong xã hội bị ràng buộc 4 giai cấp một cách chặt chẻ mà tu sĩ, tôn giáoquần chúng buộc phải chấp hành, kể cũng Lạ. Cái Lạ nữa là ngoài 1250 Tỳ kheo trực thuộc Tăng đoàn thân cận Phật, còn vô số sa môn, rãi rác khắp thôn xóm, núi rừng, đa phần tăm tắp nghiêm trì giới luật, oai nghi tế hạnh làm nổi bậc khác hẳn giữa các đạo sĩ của các tôn giáo đương thời.Chinh vì  do thân hành nghiêm túc mà suốt 12 năm đầu, chưa có vị Sa môn nào phạm luật, Phật chưa giáo giới.Năm thứ 13, có hiện tượng pháp hữu lậu xuất hiện, Tăng đoàn ít có phần chứng đắc giải thoát, ngài Tu Đề Na là vị Tăng đã trở về với gia đình sống chung vợ con như lúc chưa xuất gia,từ đó đức Thế Tôn mới chế giới, áp dụng cho vị nào phạm giới để thanh tịnh hóa Tăng đoàntrang nghiêm giáo đoàn, làm chỗ dựa cho chư Thiênloài người. cho nên,Hán tạng gọi là “Thập cú lợi”, Pali gọi là “Thập lợi”. Mười điều lợi đó là:

 1. Chỉnh đốn Tăng già 2. Làm cho Tăng hoan hỷ 3. Khiến cho Tăng được an lạc 4. Giúp ngời chưa tin sanh lòng tin 5. Giúp người đã tin càng thêm bền vững 6. Điều phục những người khó điều phục 7. Làm cho người hỗ thẹn được an lạc 8 Đoạn nghiệp hữu lậu trong hiện tại 9. Đoạn trừ nghiệp hữu lậu trong tương lai 10. Khiến Chánh pháp trụ lậu lâu dài.

Chư Tăng phạm giới làm ảnh hưởng đến ba vấn đề tự thân người phạm trong việc tu tập, ảnh hưởng đại chúng và mất niềm tin với quần chúng:

1. Trở ngại con đường giải thoátquả chứng 2. Tổn thương đến sự hòa hợpan lạc của Tăng đoàn 3. Gây sự chê bai, hủy báng hay làm mất niềm tin đối với quần chúng.

Việc chế định giới luật là điều tất yêu để duy trì mạng mạch Phật pháp cũng chưa có gì lạ, Một cái Lạ là lúc đương thời, Phật vừa viên tịch khi  ấy, thầy tỳ kheo tên Bạt nan đà cũng có mặt, chợt phát biểu : “ lúc này chúng ta nên vui mừng chứ sao lại khóc lóc như thế. Như lai đã nhập diệt rồi, khỏe, chúng ta từ nay được tự do khỏi bị câu thúc hay ức chế gì nữa, muốn làm gì thì làm, mặc sức.”. Nghe những lời vô trí của tỳ kheo ấy, tôn giả Ca Diếp xót xa, lo lắng từ nay vắng bóng đức Đạo sư, không biết kỷ cương phép tắc của tăng chúng sẽ ra sao nữa ?Ngài bèn triệu tập 500 bậc La Hán cử ngài Ưu ba Ly trùng tụng 80 lần luật giới, toàn đại chúng nhất trí giữ nguyên không thêm bớt giới luật do đức Thế Tôn chế tác. Tuy nhiên, tùy hoàn cảnhlinh động châm chước những điều nhỏ nhặt. (Luật học đại cương).

Không quy định rõ giới nào là nhỏ, nhưng qua  nhiều lần trùng tụng, cả Nam và Bắc truyền đều thống nhất những giới trọng không hề sai biệt. Có một điều lạ, tuy là giới trọng không thay đổi, nhưng trong thời gian càng xa Phật, giới trọng lắm khi bị xem nhẹ hơn điều nhỏ, cái mà linh hoạt gia giảm điều nhỏ thì giới trọng cũng bị linh hoạt gia giảm một cách linh tinh, từ đó,Ba La Di là giới mà một khi tu sĩ phạm xem như không còn giới thể của một vị Tăng, bị tẩn xuất khỏi cộng trụ giới.

Ba La Di là giới quan trọng của tu sĩ, ngày nay, việc sai phạm thường xuyên mà không thấy Tàm quý cũng là chuyện Lạ  trong nhà Phật. Sinh thời đức A Nan nằm mộng thấy 7 điều chẳng lành, đem trình với đức Phật:

KINH BẢY GIẤC MỘNG CỦA ANAN Hán dịch: Đời Đông Tấn_Thiên Trúc Tam Tạng TRÚC ĐÀM VÔ LAN Việt dịch: HUYỀN THANH A-Nan (Ānanda) ở tại nước Xá Vệ (Śrāvastī) có bẩy giấc mộng, nên đi đến thỉnh hỏi  Đức Phật.  Ngài A Nan, đệ nhất đại đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni trong 27 năm, khi còn trú tại thành Xá Vệ, ở phía Bắc Ấn Độ, Ngài đã có 7 giấc mơ kỳ lạ:

1. Mộng thấy lửa cháy đùng đùng trên mặt nước, những cột lửa nghi ngút tận trời cao. 2. Mộng thấy mặt trời biến mất, để lại thế giới Ta Bà chìm trong bóng tối. Thậm chí không có một vì sao trên bầu trời. 3. Các tăng ni, phật tử bị rơi xuống một cái hố sâu, để cho con người thế tục bước qua trên đầu. 4. Rất nhiều lợn rừng trong rừng rậm đào xới gốc cây Bồ Đề. 5. Mộng thấy A Nan đội đỉnh núi Tu Di trên đầu mà không hề thấy nặng. 6. Voi bố mẹ bỏ lại đàn con của mình. 7. Cái chết của sư tử, chúa tể rừng xanh. Những cánh hoa rơi trên xác con sư tử, tất cả thú vật đều bỏ chạy toán loạn. Không lâu sau, các con bọ bắt đầu xuất hiện trong cái xác và ăn thịt nó.

Những điềm mộng báo hiệu mạng mạch Phật pháp suy tàn sau khi đức Thế Tôn nhập Niết bàn; như thế cũng chưa lạ mà lạ là các trưởng tử Như Lai chú trọng bề ngoài, chú trọng áo mão xuênh xoang, tranh đua quyền cao chức trọng, chạy chọt giáo phẩm cao quý, hãnh diện vật chất cao sang…giữa lúc quần chúng thèm đói giáo pháp; quần chúng vùng sâu vùng cao ước mongbóng dáng Tăng sĩ hòa nhập vào đời sống bần khổ cùng họ.Sống nhờ bá tánh mà chả ai chịu khó đến với bá tánh cũng là chuyện hết sức Lạ. Còn vô số cái lạ khi (Giáo Hội) Phật Giáo Việt Nam được nhà nước hỗ trợ mọi mặt, phát triển bề nổi mà nội lực thiếu rèn luyện. Những bậc chuyên tu như đức Pháp chủ hay một số vị ẩn cư không đủ vực dậy những giới luật trong hàng Tăng chúng. Bản thân Ban Tăng sự dẫm chân tại chỗ, hơn 40 năm thống nhất mà Tăng sự chưa có kế hoạch chỉnh đốn Tăng già, củng cố nội lực, chưa có viện chuyên tu thực sự để có những sứ giả chân chánh ra phụng sự đạo. Phải chăng, những chức sắc trong GH không cần kiến thức, không cần chân tu,không cần giới luật, không cần năng động, miễn đáp ứngthừa hành tốt mọi công việc được giao, đó là chuyện Lạ trong một tổ chức không còn lạ hiện nay.

Một chuyện lạ là có vài người mặc áo tu sĩ và sau đó, cả trăm thiện nam tín nữa mặc áo Lam, từ miền ngoài đến xin Lòng thương xót của Chúa ở Giáo Điểm do cha Trương đình Long quảng cáo thiếu nghiêm túc, đa phần là những kẻ không hiểu Phật pháp, không có trình độ hiểu biết, trong khi, trước 1975 cũng như sau này, nhất là Làng Mai, một số tu sĩ khác đạo có trí thức, vẫn lặng lẽ quy y nhà Phật mà chả ai làm rùm beng, kể cũng Lạ.

Thế thì chả Lạ gì những hiện tượng bất bình thường trong PG để rồi quần chúng bức xức bêu rếu những tà sư giả danh làm ô nhục nhà Phật. Chư Tăng tùy nghi linh động với pháp thế gian để lấy lòng dẫn dắt quần chúng, phương tiện đó lâu dần biến thành tùy tiện bị chúng sanh dắt dẫn theo nhu cầu của họ mà không hay.Thế giới ngày nay, chánh tà bất phân, tà mạnh chánh yếu, chánh bị xem là tà, tà được xem là chánh. Tâm thế đảo điên, chính vì vậy nhiều bậc chân chánh đều ẩn thân hoặc im lặng trước làn sóng áp đảo tà tâm.Đó là chuyện lạ giữa cuộc sống được xem là không lạ hiện nay.

 

Minh Mẫn

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 163)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 215)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 409)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 308)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 337)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 621)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 678)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 636)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 685)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 599)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 540)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 685)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 702)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 492)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 574)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 667)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 588)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 591)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 709)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 703)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 768)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 791)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 768)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 960)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 827)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1384)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 912)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1076)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1060)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 991)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 980)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1121)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1397)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1740)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 971)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1157)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 966)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 817)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 945)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 971)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1394)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1138)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1171)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 924)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1068)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1518)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1396)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1384)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 979)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1373)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1288)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1250)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant