Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

13. Giúp đỡ tinh thần cho người sắp chết

04 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 11714)
13. Giúp đỡ tinh thần cho người sắp chết


Tôi đến Tây phương đầu tiên vào đầu thập niên 1970, và điều đã làm tôi khó chịu nhất, và hiện nay vẫn còn khó chịu, là hầu như thiếu hẳn sự giúp đỡ tinh thần cho người hấp hối hiện nay trong nền văn minh tân tiến. Ở Tây Tạng, như tôi đã nói, mỗi người đều có vài hiểu biết về những sự thật cao siêu của đạo Phật, và vài liên hệ với một bậc thầy. Không ai chết mà bị cộng đồng của họ bỏ rơi, trên phương diện thiển cận cũng như sâu xa. Người ta đã kể cho tôi nghe nhiều chuyện về người chết ở Tây phương bị bỏ rơi, buồn khổ, vỡ mộng, không một nâng đỡ tinh thần nào. Một trong những động lực thúc đẩy tôi viết sách này là muốn trải đến tất cả mọi người (Tây phương) sự minh triết của Tây Tạng, có thể hàn gắn sự thiếu sót ấy. Phải chăng tất cả chúng ta đều có quyền lúc chết không những xác ta được đối xử với niềm kính trọng, mà còn quan trọng hơn nữa là tâm thức chúng ta ? Phải chăng một trong những quyền chính của bất cứ xã hội văn minh nào, là để cho mỗi người trong đó đều có quyền được chết trong sự săn sóc phần tâm linh một cách toàn hảo nhất ? Có phải chúng ta chỉ thực sự văn minh khi điều này trở thành một tiêu chuẩn được chấp nhận ? Có nghĩa gì các nền kỹ thuật đưa người lên cung trăng, khi mà ta không biết cách nào giúp đồng loại mình chết có tư cáchhy vọng ?

Sự săn sóc tâm linh không chỉ là một xa xỉ phẩm dành cho thiểu số, nó là quyền thiết yếu của mỗi người, cũng thiết yếu như quyền chính trị, y tế và bình đẳng trong cơ hội. Một lý tưởng dân chủ thực sự phải bao gồm sự săn sóc tâm linh có thể thừa nhận đối với mọi người, kể như một trong những sự thật thiết yếu nhất của nó.

Bất cứ ở đâu tôi đến tại Tây phương, tôi đều kinh ngạc trước nỗi đau khổ tinh thần lớn lao do sự sợ chết phát sinh, dù họ có chấp nhận nỗi sợ ấy hay không. Thật là một điều an tâm biết bao cho người ta, nếu họ biết rằng khi nằm xuống chết họ sẽ được săn sóc với niềm yêu thươngtrí tuệ. Nền văn hóa chúng ta hiện nay thực nhẫn tâm trong sự khôn khéo của nó, sự phủ nhận mọi giá trị tâm linh của nó, đến nỗi con người ta mỗi khi đối diện với cơn bệnh nan y thì cảm thấy kinh hoàng như họ sắp bị vứt đi như một món hàng vô dụng. Ở Tây Tạng, phản ứng tự nhiêncầu nguyện cho người sắp chết và săn sóc tâm linh cho họ. Còn ở phương Tây, sự lưu ý duy nhất về tâm linhđa số người đem lại cho người chết chỉ là đi đưa đám ma.

Quả vậy, trong thế giới Tây phương vào cái thời điểm đau đớn nhất của người hấp hối, họ thường bị bỏ rơi, hoàn toàn không được một nâng đỡ hay một tuệ giác nào để giúp họ. Ðấy là một thực trạng bi đát sỉ nhục, cần phải thay đổi. Tất cả những tự hào về uy lựcthành công của nhân loại tân thời sẽ là rỗng tuếch, khi mà mọi người chưa được chết trong một mức độ an bình nào đó, khi chưa có ít nhất một vài nỗ lực để đảm bảo khả năng ấy.
 
 

Bên cạnh tử sàng

Một người bạn tôi, mới tốt nghiệp một trường y khoa nổi tiếng, khởi sự phục vụ trong một bệnh viện lớn ở Luân Ðôn. Vào ngày đầu của phiên cô ta trực, có bốn năm người bệnh chết. Ðấy là một cú sốc kinh khủng đối với cô, vì không có một điều gì cô đã học có thể giúp cô đối phó thực tại ấy. Có phải đáng ngạc nhiên không, khi xét rằng cô đã được huấn luyện để làm một bác sĩ ? Một ông già nằm trên giường, mắt trợn trừng nhìn lên vách. Ông ta chỉ có một mình, không có gia đình bè bạn nào đến thăm viếng cả, và ông mong mỏi có được một người nào để nói chuyện. Cô đi đến nơi ông. Ðôi mắt ông đẫm lệ, giọng run run, ông hỏi cô ta một câu mà cô không ngờ : “Bà có nghĩ rằng Thượng đế sẽ tha tội cho tôi không ?” . Bạn tôi không biết phải trả lời như thế nào ; thời gian học tập y khoa hoàn toàn không chuẩn bị cho cô những vấn đề tâm linh. Cô không có gì để nói, tất cả gì cô có bên trong chỉ là nghề nghiệp y khoa của cô. Không có nhà nguyện ở gần, và cô cứ đứng đấy, tê liệt, không thể trả lời sự kêu cứu tuyệt vọng của con bệnh, đang van xin một lời bảo đảm về ý nghĩa cuộc đời.

Cô hỏi tôi trong ngạc nhiên đau đớn : “Ngài làm được gì trong hoàn cảnh ấy ?” . Tôi nói, tôi sẽ ngồi bên cạnh ông, cầm tay ông và để cho ông nói. Tôi vẫn thường kinh ngạc nhiều lần khi thấy - nếu bạn cứ để cho người ta thổ lộ, nếu bạn chú ý lắng nghe với tâm từ mẫn - họ có thể nói những lời có chiều sâu tâm linh lạ lùng, dù cho họ nghĩ là họ không tin tôn giáo nào cả. Mỗi người đều có tuệ giác của riêng họ về đời sống, nên khi bạn để cho họ nói, là bạn làm cho tuệ giác ấy hiển lộ. Tôi vẫn thường xúc động khi thấy được rằng, ta có thể giúp người khác “tự cứu mình” bằng cách ta giúp họ khám phá sự thật trong chính họ, một sự thật mà có thể họ chưa từng biết nó phong phú, ngọt ngào, sâu xa đến mức nào. Suối nguồn của sự lành mạnhtuệ giác vốn ẩn sâu trong mỗi chúng ta, và công việc của bạn tuyệt nhiên không phải là áp đặt niềm tin của bạn, mà chính là giúp họ có thể tìm thấy suối nguồn của tuệ giác ấy trong chính họ.

Khi ngồi bên cạnh người sắp chết, bạn hãy tin rằng bạn đang ngồi bên cạnh một người có tiềm năng thực sự để thành Phật. Hãy tưởng tượng Phật tính họ như một tấm gương sáng vô cấu, và tất cả đau đớn lo sợ của họ chỉ như sương mù mỏng manh trên mặt gương, có thể nhanh chóng dẹp bỏ. Ðiều này sẽ giúp bạn nhìn thấy họ rất dễ thương, đáng tha thứ, và giúp bạn rút ra tình yêu vô điều kiện của bạn. Bạn sẽ thấy thái độ này làm cho người sắp chết mở lòng ra với bạn. Thầy Dudjom Rinpoche tôi thường bảo : Giúp một người sắp chết giống như đưa ra một bàn tay để đỡ người sắp té. Nhờ sức mạnh, sự bình an, sự chú ý sâu xa đầy bi mẫn của bạn, mà bạn có thể giúp họ đánh thức sức mạnh nơi chính họ. Tính chất sự hiện diện của bạn vào cái lúc dễ tổn thương nhất, gay cấn nhất ấy thực vô cùng quan trọng. Cicely Saunders viết : “Người sắp chết đã rũ bỏ những mặt nạ và những nông cạn của sự sống hàng ngày, và chính vì vậy mà họ cởi mở hơn, nhạy cảm hơn. Họ thấy rõ mọi sự giả dối. Tôi nhớ một người đã nói : “Không, xin đừng đọc. Tôi chỉ cần những gì ở trong trí bạn, trong tim bạn mà thôi” .

Tôi chưa bao giờ đến bên giường người sắp chết mà trước đấy không nhúng mình vào bầu không khí thiêng liêng của tự tánh tâm. Khi ấy tôi không cần phải vất vả để có được tâm đại bi và sự chân thực, vì những tính này đã có ở trong đấy, chiếu sáng một cách tự nhiên.

Cần nhớ rằng bạn không thể làm gì để gây cảm hứng cho người trước mặt bạn, nếu chính bạn không có cảm hứng từ trong tâm bạn. Bởi vậy, khi nào bạn không biết phải làm gì, không biết làm sao để giúp đỡ, thì hãy cầu nguyệnthiền quán, triệu thỉnh Phật hay bất cứ năng lực thiêng liêng nào bạn tin. Mỗi khi gặp người nào đang trải qua nỗi thống khổ ghê gớm, tôi lại tha thiết cầu khẩn sự giúp đỡ của chư Phật và thánh chúng, với tim tôi hoàn toàn mở về hướng người sắp chết, tràn đầy bi mẫn đối với nỗi đau của họ. Thu hết năng lực của lòng sùng kính tin tưởng, tôi quán hình ảnh các ngài đầy ánh sáng đang ở trên đầu người sắp chết, từ bi nhìn xuống họ và chan hòa ánh sáng ân sủng lên họ, thanh lọc ác nghiệp họ trong quá khứ và nỗi đau đớn trong hiện tại. Tôi lại cầu nguyện cho người ấy không còn khổ nữa, được giải thoát bình an.

Tôi làm việc ấy với sự tập trung nghiêm cẩn, rồi an trú trong tự tính tâm, để cho sự bình an và ánh sáng của tự tính lan khắp không khí trong phòng. Tôi đã nhiều lần cảm thấy úy phục bởi cảm giác có một hiện hữu thiêng liêng đang ở đấy một cách tự nhiênảnh hưởng đến người sắp chết.

Tôi lại nói điều này, có lẽ sẽ làm bạn ngạc nhiên : có thể có đầy cảm hứng trong sự chết. Trong kinh nghiệm tôi có với những người sắp chết, tôi đã thấy rằng tôi phải kinh ngạc khi thấy sự cầu nguyện, triệu thỉnh của tôi đã làm thay đổi bầu không khí, khiến cho đức tin của tôi tăng trưởng sâu xa khi thấy hiệu lực của sự cầu nguyệnhiện hữu của chư Phật. Nhờ ở cạnh người sắp chết mà tự tu tập của tôi càng có năng lực lớn hơn.

Ðôi khi những người sắp chết cũng cảm nhận được bầu không khí đầy cảm ứng đạo giao ấy, và lấy làm tri ân vì đã tạo cơ hội cho cả hai chúng tôi cùng đạt đến một giây phút thực sự gây cảm khái và hoán cải.
 
 

Ðem lại hy vọng và tìm sự tha thứ

Tôi muốn nêu lên hai điểm trong việc giúp đỡ tinh thần người hấp hối : đem lại hy vọng, và tìm thấy sự tha thứ.

Khi gần người sắp chết, luôn luôn bạn chỉ nên giữ lấy những gì họ đã thành tựu được, những thành công của họ. Giúp họ cảm thấy họ đã sống một đời hữu ích và hạnh phúc, càng nhiều càng tốt. Tập trung vào đức tính của họ, chứ không tập trung vào lỗi lầm của họ. Người sắp chết thường rất nhạy cảm về tội lỗi, hối hận, buồn nản, hãy để họ trút hết tất cả ra, lắng nghe và công nhận những gì họ nói. Ðồng thời, lúc thích hợp, hãy nhớ nhắc họ Phật tính của họ, và khuyên họ cố an trú tự tính nhờ thiền định. Nhất là nhắc họ nhớ : đau đớn khổ sở không phải là cả cuộc đời họ. Tìm cách nào hiệu quả nhất, để gợi cảm hứng cho họ, gây cho họ niềm hy vọng. Nhờ vậy, họ có thể chết với tâm an lạc thay vì cứ nhớ tới lỗi lầm của mình.
 
 

*
 
 

Với người la lên một câu : “Bạn có nghĩ Thượng đế sẽ tha tội cho tôi chăng ?”, tôi sẽ nói : “Sự tha thứ đã có sẵn trong bản chất của Thượng đế. Thượng đế đã tha cho bạn rồi, vì Thượng đế chính là sự tha thứ. Lầm lạccon người, tha thứThượng đế. Nhưng bạn có thể tha thứ cho bạn không ? Ðó mới thực là vấn đề.

“Chính cái cảm tưởng không được tha thứ và không thể tha thứ đã làm cho bạn đau khổ. Nhưng cảm tưởng ấy chỉ có trong tâm trí bạn. Bạn chưa đọc về một vài kinh nghiệm cận tử nói có một ánh hào quang vàng rực chiếu đến toàn là sự tha thứ sao ? Và thông thường có câu rằng : chỉ có chúng ta tự phê phán chúng ta mà thôi. Muốn giải tỏa tội lỗi bạn, hãy xin thanh lọc từ tận đáy tim bạn. Nếu bạn thực sự xin sám hốitrải qua sự thanh lọc ấy, thì sự tha thứ đã có ở đấy rồi. Thượng đế sẽ tha thứ bạn, hệt như người cha tha thứ cho đứa con hoang đàng trong ẩn dụ đẹp đẽ của Ki-tô giáo. Muốn giúp bạn tự tha thứ cho bạn, thì hãy nhớ lại những việc tốt bạn đã làm, hãy tha thứ cho mọi người khác trong đời bạn, và xin lỗi bất cứ người nào mà bạn đã làm hại” .

Không phải ai cũng tin vào một tôn giáo, nhưng hầu như ai cũng tin vào sự tha thứ. Bạn có thể giúp người sắp chết rất nhiều bằng cách cho họ thấy thời gian cận tử là lúc để tha thứgiảng hòa.

Hãy khuyên họ hòa giải với bạn bè thân quyến, dọn sạch cõi lòng để đừng giữ lại dấu vết nào của sự sân giận hay oán ghét. Nếu họ không thể gặp người mà họ có vấn đề, thì hãy gợi ý họ điện thoại hay nói vào máy ghi âm cho người ấy, hay viết một bức thư để xin tha thứ. Nếu họ ngờ vực người kia không tha thứ được, thì ta không nên khuyên họ chạm mặt trực tiếp với người kia ; vì một phản ứng tiêu cực chỉ làm tăng thêm nỗi buồn khổ của họ. Ðôi lúc người ta cần thời gian để tha thứ. Hãy nói họ để lại một bức thư xin lỗi, để ít nhất họ có thể chết trong khi biết mình đã làm hết sức mình, có thể giải tỏa sự gay cấn giận hờn khỏi trái tim họ. Nhiều lúc tôi đã thấy những người trái tim cứng lại vì tự giận và vì mặc cảm phạm tội, cuối cùng chỉ nhờ một hành vi xin lỗi mà đã có được một năng lực và sự bình an không ngờ.

Tất cả mọi tôn giáo đều nhấn mạnh năng lực của tha thứ, và năng lực này không bao giờ cần thiết và được cảm thụ một cách sâu xa cho bằng lúc người sắp chết nhờ tha thứ và được tha thứ, mà đã thanh lọc mình khỏi màn hắc ám và chuẩn bị một cách trọn vẹn cho cuộc hành trình đi qua cái chết.
 
 

Tìm một pháp tu

Nếu người thân bạn đang chết đã quen với một lối thiền định nào đó, thì bạn hãy khuyên y an trú trong thiền ấy càng nhiều càng tốt, và hãy nhập thiền định với họ khi cái chết đến gần. Nếu người sắp chết sẵn sàng chấp nhận một pháp tu, bạn hãy giúp họ tìm một pháp tu thích hợp, giản dị, và cùng thực tập với họ càng thường xuyên càng tốt, và nhẹ nhàng nhắc cho họ thực tập pháp ấy khi cái chết đến gần.

Bạn cần phải phong phú, sáng tạo trong cách giúp đỡ, vào cái lúc cao điểm này, vì rất nhiều chuyện lệ thuộc vào đấy. Toàn thể bầu không khí chết chóc có thể được chuyển hóa nếu người ta tìm được một pháp tu mà họ có thể làm hết mình, trước và trong khi họ chết. Có rất nhiều phương diện của sự tu tập tâm linh, bạn phải sử dụng tính mẫn cảm của bạn để tìm ra phương diện liên hệ tới họ nhiều nhất : hoặc tha thứ (sám hối), hoặc thanh luyện, hoặc hiến dâng, hoặc cảm thấy hiện diện của ánh sáng và tình yêu. Khi bạn giúp họ khởi sự tu tập, hãy tha thiết cầu nguyện cho họ tập luyện thành công, nguyện cho họ có mọi năng lựcđức tin để theo con đường họ chọn. Tôi đã biết có những người ngay cả khi gần chết, đã làm được sự tiến bộ tâm linh rõ rệt nhờ sử dụng một câu chú, một bài kinh hay một sự quán tưởng đơn giản, nhờ vào đó họ đã thực sự liên lạc được với cái tâm của họ.

Stephen Levine kể cho tôi câu chuyện về một phụ nữ chết vì bệnh ung thư. Bà cảm thấy chới với vì đã bỏ nhà thờ, mặc dù bà sùng kính Chúa Giê-su. Stephen cùng bà ta cố tìm cách nào để bà có thể lấy lại được sức mạnh của lòng tin và sự sùng kính ấy. Bà nhận ra rằng cái điều có thể giúp bà tái lập quan hệ với Chúa để tìm được một ít bình an, tin tưởng trong lúc chết, là liên tục nhẩm lời cầu nguyện : “Xin Chúa Ki-tô hãy thương xót con” . Sự đọc lời nguyện này đã mở lòng bà, làm cho bà khởi sự cảm thấy sự hiện diện của Chúa ở bên bà mãi mãi.
 
 

Pháp chuyển di tâm thức “Phowa”

Pháp tu có giá trị nhất, hiệu lực nhất mà tôi tìm thấy trong lúc săn sóc người hấp hối, là pháp chuyển di tâm thức, Tạng ngữ là phowa. Rất nhiều người hăng hái theo pháp này.

Pháp chuyển di tâm này đã được thực hiện bởi những bạn bè thân quyến hay thầy (của người chết) ở khắp nơi trên thế giới - Úc, Mỹ và AÂu châu. Nhờ năng lực của nó mà hàng ngàn người đã có cơ hội để chết một cách thanh thản. Tôi lấy làm hoan hỷ khi đem trái tim của sự thực hành “chuyển di” này đến cho bất cứ ai cần dùng.

Tôi muốn nhấn mạnh, pháp tu này ai làm cũng được. Nó rất giản dị, nhưng cũng là pháp tu cốt yếu nhất mà ta có thể làm để tự chuẩn bị cái chết cho ta. Và đây là phần thực tập chính thức mà tôi đã dạy cho học trò để giúp người bạn sắp chết của họ, hoặc những bà con thân quyến đã chết.
 
 

Thực tập một :

Trước hết, ngồi thoải mái theo thế ngồi thiền. Nếu bạn làm thực tập này lúc bạn gần chết, thì có thể ngồi kiểu nào thuận tiện cho bạn, hoặc nằm mà tập.

Rồi đưa tâm bạn về nhà, buông xả, thư giãn hoàn toàn.

1- Trong bầu trời trước mặt, bạn hãy triệu thỉnh biểu tượng của chân lý mà bạn tin, dưới dạng ánh sáng tỏa chiếu. Hãy chọn hình ảnh vị Phật hay thần thánh nào bạn thích. Nếu bạn không có liên hệ đặc biệt với một hình ảnh nào cả, thì chỉ tưởng tượng một ánh sáng vàng ròng trong nền trời trước mặt. Ðiểm quan trọng là bạn xem đấy là biểu tượng của chân lý, trí tuệtừ bi của tất cả chư Phật, thánh chúng, các bậc thầy, các bậc đã giác ngộ. Ðừng lo nếu bạn không quán ra hình ảnh được một cách rõ ràng. Chỉ cần bạn làm tràn ngập tim mình với sự hiện diện của Phật, và tin rằng Phật đang ở đấy

2- Rồi tập trung tâm, trí, hồn của bạn vào hiện diện mà bạn đã triệu thỉnh, và cầu nguyện như sau :

Nhờ ân sủng, sự dìu dắt, năng lực ánh sáng tuôn phát từ nơi ngài.

Xin cho tất cả ác nghiệp của con, phiền não nghiệp chướng đều được tịnh trừ.

Xin cho con tự biết đã được tha thứ về tất cả điều hại mà con đã nghĩ và làm.

Xin cho con hoàn tất phép chuyển di sâu xa này, để chết một cái chết an ổn.

Và qua sự chết vinh quang của con, mong con có thể lợi lạc tất cả hữu tình sống hay chết.

3- Bây giờ, hãy tưởng tượng sự hiện diện ánh sáng mà bạn đã triệu thỉnh - do lời cầu nguyện chân thành tha thiết của bạn - liền đáp ứng bằng một nụ cười âu yếm và gởi đến bạn lòng từ bi trong một luồng ánh sáng từ trái tim vị ấy chiếu ra. Khi ánh sáng này chạm tới bạn, vào trong bản thể bạn, thì bao nhiêu ác nghiệp phiền não chướng ngại của bạn, nguyên nhân đau khổ đều được tịnh hóa. Bạn thấy và cảm nhận rằng bạn hoàn toàn chìm ngập trong ánh sáng ân sủng ấy.

4- Bây giờ bạn đã được tịnh hóa, hoàn toàn được chữa lành những đau khổ, nhờ ánh sáng ấy. Hãy xem như chính thân thể do nghiệp sanh của bạn, bây giờ bỗng tan rã hoàn toàn thành ánh sáng.

5- Cái thân bằng áng sáng của bạn bây giờ bay lên hư không và tan hòa trong sự hiện diện của ánh sáng ân sủng trên kia, thành một nhất thể bất khả phân.

6- An trú trong trạng thái nhất thể ấy càng lâu càng tốt.
 
 

Thực tập hai :

1- Muốn thực tập pháp này cách giản dị hơn, hãy bắt đầu như trên, bằng cách nghỉ ngơi yên tĩnh, rồi triệu thỉnh sự hiện diện của chân lý.

2- Tưởng tượng tâm thức của bạn như một trái cầu sáng ở tim, chiếu ra như một vì sao băng, và bay vào tim của sự hiện diện trước mặt bạn.

3- Trái cầu sáng ấy tan ra và hòa nhập với hiện diện ấy.

Qua sự luyện tập này, bạn đặt tâm bạn vào tâm giác ngộ của Phật. Dilgo Khientse Rinpoche nói rằng giống như ném một hòn sỏi vào hồ, nghĩ đến hòn sỏi chìm xuống càng lúc càng sâu. Quán tưởng rằng nhờ ân sủng đó, tâm bạn được chuyển hóa thành tâm giác ngộ của Phật.
 
 

Thực tập ba :

 Phương pháp cốt yếu nhất để tập luyện phép này như sau : chỉ việc hòa tâm bạn vào tâm giác ngộ của hiện diện thuần khiết. Hãy quán : “Tâm con và tâm Phật là một” .

Bạn hãy chọn bất cứ phương pháp nào trong các pháp trên, mà bạn thấy thuận tiện ; hoặc pháp nào hấp dẫn bạn nhất vào một lúc đặc biệt nào đó. Ðôi khi pháp môn hiệu nghiệm nhất có thể lại là pháp môn đơn giản nhất. Nhưng dù chọn cách nào, điều cốt yếu vẫn là bạn cần thời gian tập luyện cho thuần thục. Còn cách nào khác để bạn có được niềm tin cậy mà làm phép Chuyển di cho chính bạn hay người khác vào lúc chết ? Thầy tôi, Jamyang Khientse Rinpoche nói : “Nếu bạn thiền định và tập theo cách ấy luôn luôn thì vào lúc chết, nó sẽ xảy đến một cách dễ dàng”.

Quả thế, bạn cần phải quen thuộc với phép Chuyển di này để cho nó thành một phản xạ tự nhiên, bản tính thứ hai của bạn. Nếu bạn đã xem phim Gandhi, bạn sẽ thấy khi bị bắn, phản ứng lập tức của ngài là kêu lên “Ram... Ram !” (Thượng đế của Ấn giáo). Hãy nhớ, chúng ta không bao giờ biết được khi nào thì mình chết, hoặc biết mìnhthời giờ mà nhớ lại pháp môn nào không. Ta sẽ có bao nhiêu thời giò, chẳng hạn, nếu ta tông chiếc xe hơi của mình vào một xe cam-nhông đang chạy hết tốc lực trên xa lộ ? Khi ấy sẽ không có một giây nào để nghĩ cách nào làm phép Chuyển di, hoặc để xem lại những xách chỉ dẫn trong sách này. Hoặc chúng ta đã thuần thục phép Chuyển di, hoặc là không. Có một cách đơn giản để đo lường điều này : hãy xem phản ứng của bạn khi gặp hoàn cảnh khủng hoảng, hoặc trong một phút kinh hoàng như động đất, hay ác mộng. Bạn có phản ứng bằng phép Chuyển di hay không ? Nếu có, bạn làm với mức độ tin tưởng thế nào, vững vàng thế nào ?

Tôi nhớ một học trò tôi ở Mỹ, có lần cỡi ngựa đi chơi. Con ngựa hất nàng xuống, bàn chân nàng mắc vào sợi dây cương, và nàng bị kéo xềnh xệch trên đường. Tâm trí nàng trống rỗng, nàng cố một cách vô vọng để nhớ lại vài pháp môn nhưng không nhớ được một tí gì. Nàng đâm ra kinh hoàng thất sắc. Một điều tốt về nỗi hoảng sợ này là, nó làm cho nàng nhận chân rằng sự tập luyện cần phải trở thành bản tính thứ hai của mình mới được. Ðây là bài học của nàng phải học, quả thế, là bài học mà tất cả chúng ta phải học. Hãy thực tập Chuyển di càng nhiều càng tốt, cho đến khi bạn bảo đảm có thể phản ứng lại bất cứ biến cố bất ngờ nào, bằng pháp môn ấy. Ðiều ấy sẽ bảo đảm rằng khi cái chết xảy đến, bạn sẽ sẵn sàng.
 
 

Dùng pháp Chuyển di để giúp người sắp chết

Làm sao chúng ta sử dụng pháp này để giúp một người sắp chết ?

Nguyên tắc và thứ tự của sự tập luyện cũng giống như đã nói ; chỉ khác là bạn quán hình ảnh Phật ở trên đầu người sắp chết. Tưởng tượng những tia sáng trút xuống người hấp hối, tịnh hóa bản thể họ, và người ấy đang tan thành ánh sáng, nhập vào ánh sáng của Phật.

Làm pháp này suốt thời gian người thân của bạn bị bệnh, nhất là vào lúc họ thở hơi cuối cùng, hoặc vừa khi ngưng thở, trước khi thân thể họ bị động tới bằng cách nào đó. Nếu người hấp hối biết bạn sắp làm phép ấy cho họ, và đã biết qua pháp môn này, thì điều ấy có thể đem lại cho họ một nguồn cảm hứngan ủi lớn lao.

Hãy ngồi yên tĩnh với người hấp hối, thắp đèn sáng trước một hình ảnh Phật, rồi luyện pháp Chuyển di này cho họ. Bạn có thể tập luyện trong lặng lẽ, không cần người kia biết ; trái lại nếu người kia sẵn sàng - như phần đông người sắp chết - thì bạn chỉ cho họ cách quán tưởng và cùng làm với họ.

Người ta thường hỏi : “Nếu người bà con đang hấp hối của tôi là một người thực hành Ki-tô giáo, còn tôi là Phật tử, thì có mâu thuẩn gì không ?” . Làm sao có mâu thuẩn được ? Bạn đang triệu thỉnh chân lý, và Chúa hay Phật đều là hiện thân đầy từ bi của chân lý, xuất hiện cách cách khác nhau để giúp đỡ con người.

Tôi cực lực đề nghị các bác sĩ, y tá cũng nên tập pháp Chuyển di cho những bệnh nhân đang hấp hối của họ. Hãy tưởng tượng điều ấy sẽ thay đổi bầu không khí trong bệnh viện một cách kỳ diệu thế nào, nếu những người chữa trị cho người hấp hối cũng làm pháp Chuyển di này. Tôi nhớ cái chết của thầy Samten lúc tôi còn bé, hồi đó thầy tôi và các tu sĩ đều giúp ông. Thật là mãnh liệt, nhẹ nhàng làm sao ! Ðiều tôi mong mỏi nhất là ai cũng chết được với niềm bình anân sủng như thầy Samten.

*
 
 

Tôi đã soạn pháp Chuyển di vắn tắt này từ pháp truyền thống đặc biệt của Tây Tạng dành cho người sắp chết. Nó bao gồm tất cả những nguyên tắc quan trọng nhất. Không những nó chỉ là một pháp luyện tập cho người sắp chết, mà còn có thể dùng để tịnh hóa và chữa lành ; nó còn quan trọng đối với người đang sống và người bệnh nữa. Nếu người ốm khỏi bệnh, thì pháp này giúp cho khỏi bệnh ; nếu người ấy chết thì pháp này sẽ giúp chữa lành tâm hồn họ trong khi chết ; nếu người ấy đã chết, thì nó vẫn tiếp tục tịnh hóa người sống cũng như người chết.

Nếu bạn không chắc người bệnh nặng có qua khỏi hay sẽ chết, thì mỗi khi đi thăm, hãy làm pháp này cho họ, và khi về nhà lại làm nữa. Càng làm nhiều lần, thì người sắp chết càng được tịnh hóa. Bạn không bao giờ biết mình có gặp lại họ không, hoặc có hiện diện khi họ chết hay không, bởi thế mỗi lần viếng thăm, bạn nên kết thúc bằng pháp Chuyển di này để chuẩn bị và tiếp tục làm lúc bạn rảnh rỗi.
 
 

Cống hiến cái chết của chúng ta

Trích từ Tử thư Tây Tạng :

“Này thiện nam, nay cái gọi là “chết” đã đến, vậy ngươi hãy có thái độ này : Tôi đã tới thời chết. Bây giờ, qua cái chết này, tôi sẽ giữ thái độ của tâm đã giác ngộ mà thôi, đó là từ và bi, và sẽ đạt giác ngộ hoàn toànlợi lạc cho tất cả hữu tình nhiều vô lượng như không gian...”

Gần đây, một học trò tôi đến nói với tôi : “Bạn tôi mới có 25 tuổi đang đau đớn và sắp chết vì bệnh ung thư máu. Y đã đâm ra cay đắng kinh khủng, và tôi sợ y sẽ bị chết đuối trong nỗi cay đắng. Y cứ hỏi tôi : “Tôi có thể làm gì với tất cả nỗi khổ đau kinh khủng, vô ích này ?”.

Tim tôi hướng về cô và người bạn cô. Có lẽ không gì đau khổ bằng thấy mình chịu khổ đau một cách vô ích. Tôi bảo cô học trò tôi rằng : “Có một cách để bạn cô có thể chuyển hóa cái chết của y ngay bây giờ, ngay trong cơn đau ghê gớm mà y đang chịu đựng : đó là y hãy hiến dâng với tất cả tấm lòng, nỗi khổ của cái chết và chính cái chết của y, cho sự lợi lạchạnh phúc tối hậu của người khác”.

Tôi bảo cô ta hãy nói với y : “Tôi biết bạn đang đau đớn rất nhiều. Hãy tưởng tượng giờ phút này tất cả những người trên thế giới đang đau đớn như bạn, hay còn đau hơn nữa, và để trái tim bạn tràn ngập sự bi mẫn đối với họ. Hãy cầu nguyện rằng sự khổ đau của bạn sẽ giúp làm vơi bớt khổ đau của họ. Bạn hãy lập đi lập lại sự hiến dâng nỗi đau đớn của bạn để làm vơi bớt khổ đau của nhân loại. Và rồi bạn sẽ tìm được ngay trong chính bạn một nguồn năng lực mới, một lòng bi mẫn mà bây giờ bạn khó tưởng tượng nổi, và bạn sẽ có được niềm xác tín không chút nghi ngờ, rằng nỗi đau của bạn không những không vô ích, mà còn mang một ý nghĩa nhiệm mầu” .

Ðiều mà tôi diễn đạt cho người học trò tôi kỳ thực là phương pháp hành trì Tonglen, “chịu thay” , hay “cho và nhận” mà tôi đã trình bày, nhưng nó còn có ý nghĩa đặc biệt đối với người đang mắc bệnh nan y hay sắp chết.

Nếu bạn bị một căn bệnh như Sida hay ung thư, bạn hãy cố hết sức tưởng đến mọi người đồng bệnh với bạn trên thế giới.

Hãy tự nhủ bạn, với lòng bi mẫn sâu xa : “Tôi xin chịu thay đau đớn cho tất cả những ai có căn bệnh hiểm nghèo này. Mong cho họ giải thoát thoát khỏi đau đớn này và khỏi tất cả khổ đau của họ” .

Rồi hãy tưởng tượng những ung nhọt, bệnh tật của người ấy từ giã cơ thể họ dưới dạng khói tan vào ung nhọt, bệnh tật của bạn. Khi thở vào, bạn thở vào tất cả đau đớn của họ, và khi thở ra, bạn thở ra toàn sự khỏi bệnh, sự an lạc. Mỗi khi thực tập, bạn hãy tin chắc bây giờ những người kia đã được chữa khỏi.

Khi bạn gần chết, hãy liên tục nghĩ trong tâm : “Tôi xin chịu thay sự đau khổ, nỗi sợ hãi, cô đơn của tất cả mọi người trên thế giới giờ phút này đang hấp hối, đang chết. Mong tất cả họ đều thoát khỏi đau đớn mê mờ ; mong tất cả họ đều được tiện nghian ổn. Mong sao tất cả đau đớn mà tôi đang chịu và sẽ chịu trong tương lai có thể giúp họ tiến đến một tái sinh tốt đẹpcuối cùng đạt giác ngộ” .

Tôi biết một nghệ sĩ ở Nữu Ước chết vì chứng Sida. Anh ta có thói cay cú và ghét tất cả tôn giáo có tổ chức, mặc dù chúng tôi đều nghĩ thâm tâm anh có nhiều tò mò về tâm linh hơn là anh công nhận. Bạn bè khuyên anh nên đến gặp một bậc thầy Tây Tạng. Ngài hiểu ngay rằng nguyên nhân lớn nhất của nỗi bất mãnđau khổ nơi anh là vì anh cảm thấy nỗi khổ của anh không có lợi gì cho chính anh, hay bất cứ ai. Bởi thế, ngài dạy anh một pháp môn duy nhất : “Chịu thay”, tức Tonglen. Mặc dù lúc đầu hơi hoài nghi, song anh cũng chịu tu tập, và bạn bè thấy anh thay đổi một cách diệu kỳ. Anh nói cho họ biết rằng nhờ pháp “chịu thay” nên nỗi đau đớn mà trước đây anh thấy vô nghĩa, kinh khủng, bây giờ lại đầy mục đích vinh quang. Ai biết anh đều công nhận ý thức mới về mục đích này đã chuyển hóa cái chết của anh như thế nào. Anh chết trong thanh thản, hòa giải với chính mình và với nỗi khổ đau của mình.

Nếu sự tu luyện pháp “chịu thay” này có thể cải hóa một người trước đây chưa từng tu tập, thì thử tưởng tượng với một bậc thầy vĩ đại, nó còn có năng lực biết ngần nào. Khi Gyalwang Karmapa chết ở Chicago vào năm 1981, một môn đệ của ngài kể lại :

“Vào lúc tôi viếng thăm, ngài đã qua nhiều cuộc giải phẫu, vài thân phần bị cắt bớt, nhiều vật khác bỏ thêm vào, máu ngài được chuyền thêm.v.v... Cứ mỗi ngày các bác sĩ lại khám phá thêm một bệnh mới, chỉ để thấy hôm sau nó hoàn toàn biến mất và thay bằng một bệnh khác, dường như tất cả bệnh tật trên thế giới đều có chỗ cư trú trong xương thịt của ngài. Suốt hai tháng liền, ngài không dùng được thực phẩm cứng, cuối cùng bác sĩ cũng hết hy vọng, nghĩ ngài không thể nào sống được nữa nên các bác sĩ định rút ra tất cả máy móc duy trì sự sống của ngài.

Nhưng ngài bảo : “Không, tôi sẽ sống, cứ để vậy”, và ngài vẫn sống, làm cho các bác sĩ kinh ngạc. Ngài lại có vẻ hoàn toàn thoải mái trong hoàn cảnh của ngài - cười pha trò, làm như ngài vui mừng trước mọi sự mà cơ thể ngài chịu đựng. Khi ấy tôi nghĩ, với niềm tin sáng suốt nhất, ngài đã chịu tất cả sự cắt xẻ ấy, chịu mọi xuất hiện của các chứng bệnh trên cơ thể ngài, chịu nhịn đói, bằng một cách hoàn toàn cố ý tự nguyện : rõ ràng ngài đang cố chịu những bệnh tật để giúp giảm thiểu những khổ chiến tranh, đói khát, tật bệnh sắp tới, để tránh nỗi thống khổ kinh hoàng cho nhân loại trong thời đại đen tối này. Ðối với những người có mặt hôm ấy, cái chết của ngài là một cảm hứng khó quên. Nó chứng tỏ một cách sâu xa hiệu lực của pháp, và cái sự kiện đạt giác ngộ vì người khác là chuyện có thực” .

Bây giờ tôi tin chắc một điều, không ai ở đời cần phải chết trong ân hận, cay đắng cả. Không một đau khổ nào, dù kinh hãi tới đâu, là vô nghĩa, nếu sự đau khổ ấy được hiến dâng để giảm thiểu khổ đau của người khác.

Trước mắt chúng ta có những tấm gương cao cả là những bậc thầy tối thượng với tâm đại bi, đã sống và chết với pháp tu “chịu thay”, đem vào đau khổ của tất cả hữu tình khi thở vào, và chan hòa cho nhân loại sự lành mạnh, khỏi bệnh khi thở ra - trọn đời như thế, cho đến khi hơi thở cuối cùng. Lòng đại bi của các ngài mãnh liệt, bao la tới nỗi vào lúc chết, nó mang các ngài tái sinh vào ngay cõi Phật.

Thế giớikinh nghiệm của chúng ta về nhân sinh sẽ được chuyển hóa xiết bao nếu mỗi chúng ta trong suốt cuộc đời và lúc chết, có thể đọc lời nguyện của Shantideva và các bậc thầy của tâm đại bi :

Với những người bơ vơ, tôi xin làm người che chở

Với kẻ lữ hành, tôi xin làm người hướng đạo

Xin được là thuyền, là cầu, là lối đi qua

Cho người muốn đến bờ kia

Mong sao đau khổ của mọi sinh vật

Ðều hoàn toàn chấm dứt.

Mong cho tôi được là y sĩ

Là dược liệu, là người điều dưỡng mọi bệnh nhân

Cho đến khi mọi người đều được chữa khỏi.

Như hư không

Như đất và bốn đại chủng

Mong rằng tôi luôn nâng đỡ sự sống của vô lượng sinh loài

Cho đến khi chúng chết vì đau đớn

Tôi vẫn là nguồn sống

Cho mọi cảnh giới chúng sanh

Ðến tận cùng hư không ấy.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 135)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 192)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 215)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 282)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 193)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 242)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 269)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 259)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 290)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 369)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 602)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 460)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 479)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 569)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 752)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 830)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 852)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 840)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 730)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 709)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 712)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 812)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 833)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 936)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 714)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 609)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 706)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 823)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 707)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 707)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 822)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 850)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 823)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 863)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 893)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 885)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1077)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 951)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1656)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1065)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1210)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 954)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1210)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1115)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1122)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1276)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1549)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2028)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1093)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1352)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1096)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 944)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1063)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1092)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1531)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1282)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1287)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1022)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1181)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant