Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Khảo Về Tuyên Ngôn Đản Sanh

27 Tháng Tư 201918:56(Xem: 4607)
Khảo Về Tuyên Ngôn Đản Sanh
KHẢO VỀ TUYÊN NGÔN ĐẢN SANH

Chúc Phú
Khảo Về Tuyên Ngôn Đản Sanh
Giữa thế giới Nhơn, Thiên, không có ai bằng Ta1
(Sadevakasmiṃ lokasmiṃ, natthi me paṭipuggalo)


Đức Phật
không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay. Và do vậy, chữ tuyên ngôn theo định nghĩa của các bộ từ điển ngày nay(1) chưa thể biểu đạt trọn vẹn những điều mà Đức Phật đã trình bày, vì chúng sẽ dừng lại trong giới hạn của ngôn ngữ chuyển tải.

Trong sự biện biệt của ngôn ngữ, tuyên ngôn được hiểu ở đây là sự lập ngôn, là sự quảng bố, khẳng định hoặc được khẳng định một giá trị đích thực nào đó. Tuyên ngôn được xem là đầu tiên trong cuộc đời Đức Phật, là lời nói trong lúc đản sanh của Ngài.

Cơ sở kinh điển

Điều dễ dàng nhận thấy, có rất nhiều kinh điển đề cập đến sự kiện này, trải đều trên cả hai hệ thống kinh điển Nikaya và kinh điển Phật giáo Bắc truyền. Điều đó cho thấy rằng, đây là một vấn đề rất mực quan trọng. Trong khuôn khổ một lược khảo bước đầu, chúng tôi tạm khảo sát ở hệ thống Nikaya.

1- Kinh Tiểu Bộ (Khuddaka Nikàya)

a) Kinh Tập (Sutta Nipata), Chương 3, Đại Phẩm, Kinh Nalaka, câu kệ 683-684(2):

Câu chuyện nói về ẩn sĩ Asita (A Tư Đà) đoán tướng cho Thái tử. Asita thấy chư Thiên vui mừng liền hỏi duyên cớ. Chư thiên đáp:

"Tại xứ Lâm Tì Ni
Trong làng các Thích Ca,

Có sanh vị Bồ tát
Báu tối thắng, vô tỷ.
Ngài sanh, đem an lạc
Hạnh phúc cho loài người,
Do vậy chúng tôi mừng
Tâm vô cùng hoan hỷ.
Ngài, chúng sanh tối thượng
Ngài, loài người tối thắng,
Bậc Ngưu Vương loài người
Thượng Thủ mọi sanh loại.
Ngài sẽ chuyển Pháp luân,
Trong khu rừng ẩn sĩ,
Rống tiếng rống sư tử,
Hùng mạnh, nhiếp loài thú".

Và câu kệ tiếp theo nói về một vị ẩn sĩ bện tóc, tên Kà-ha-xi-ri:

690. Sau khi ẵm bồng lên
Con trai dòng họ Thích,
Bậc cầu đạo tìm hiểu,
Vượt khổ, nhờ tướng, chú,
Tâm tư được hoan hỷ,
Thốt lên lời như sau:
Vị này bậc Vô thượng,
"Tối thượng loài hai chân".

b) Kinh Bổn Sanh (Jataka), Phần Nidana Katha (Duyên khởi luận):

Khi Bồ tát rời khỏi tay mọi người, ngài đứng thẳng trên mặt đất, nhìn về hướng Đông trước mặt ngài có muôn ngàn thế giới trải rộng. Các thần linhloài người dâng cúng ngài hương liệu, tràng hoa… và nói:

- Thưa đại nhân, ở đây không có ai bằng ngài và chắc chắn không có ai hơn ngài cả!

Khi ngài đã nhìn bao quát bốn phương chính đông tây nam bắc và bốn phương giữa cùng trên trời dưới đất, ngài không thấy ai bằng ngài cả, và ngài tuyên bố:

- Đây là phương Bắc.

Rồi ngài đi bảy bước, được vị đại phạm thiên thần theo hầu cầm lọng trắng che đầu ngài, thần Suyama cầm quạt hầu và nhiều vị thần khác mang các biểu tượng hoàng gia. Đến bước thứ bảy, ngài dừng lại, cất tiếng rống như sư tử, một tiếng rống cao quý bắt đầu bằng:

- Ta là đấng tối tôn trên toàn thế giới (3).

2- Trường Bộ Kinh (Digha Nikaya)

14. Kinh Đại Bổn(Mahàpadàna sutta)(4):

Đây là bài kinh Đức Phật thuyết giảng tại nước Sàvatthi (Xá Vệ) rừng Jeta (Kỳ Đà), vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô Độc), trong am thất cây Kareri (Hoa Lâm), Ngài thuyết về tiền thân sáu vị Phật quá khứbản thân của Ngài. Đản sanh như vậy, thành đạo như vậy thuyết giảng như vậy và giải thoát như vậy. Đoạn sau đây miêu tả sự kiện đản sanh của Đức Phật quá khứ Tỳ Bà Thi (Vipassì).

26. Này các Tỷ kheo, pháp nhĩ là như vậy. Khi vị Bồ tát từ bụng mẹ sanh ra, vị Bồ tát không đụng đến đất. Có bốn Thiên tử đỡ lấy Ngài, đặt Ngài trước bà mẹ và thưa: "Hoàng hậu hãy hoan hỷ. Hoàng hậu sanh một bậc vĩ nhân". Pháp nhĩ là như vậy.

***

29. Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Vị Bồ-tát khi sanh ra, Ngài đứng vững, thăng bằng trên hai chân, mặt hướng phía Bắc, bước đi bảy bước, một lọng trắng được che trên. Ngài nhìn khắp cả mọi phương, lớn tiếng như con ngưu vương, thốt ra lời như sau: "Ta là bậc tối thượng ở trên đời! Ta là bậc tối tôn ở trên đời. Ta là bậc cao nhất ở trên đời. Nay là đời sống cuối cùng, không còn phải tái sanh ở đời này nữa". Pháp nhĩ là như vậy.

3- Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikaya)

23. Kinh Hy hữu vị tằng hữu pháp(Acchariya-abbhùtadhamma sutta)(5):

Bạch Thế Tôn, con tận mặt nghe, con tận mặt ghi nhớ từ Thế Tôn: "Khi Bồ tát từ bụng mẹ sanh ra, này Ananda, Bồ tát không đụng đến đất. Có bốn Thiên tử đỡ lấy Ngài, đặt Ngài trước bà mẹ và thưa: "Hoàng hậu hãy hoan hỷ! Hoàng hậu sanh một bậc vĩ nhân". Vì rằng, bạch Thế Tôn, con thọ trì sự việc này, bạch Thế Tôn, là một hy hữu, một vị tằng hữu của Thế Tôn.

***

Bạch Thế Tôn, con tận mặt nghe, con tận mặt ghi nhớ từ Thế Tôn: "Bồ-tát khi sanh ra, này Ananda, Ngài đứng vững, thăng bằng trên hai chân, mặt hướng phía Bắc, bước đi bảy bước, một lọng trắng được che lên. Ngài nhìn khắp cả mọi phương, lên tiếng như con ngưu vương, thốt ra lời như sau: "Ta là bậc tối thượng ở trên đời! Ta là bậc tối tôn ở trên đời! Ta là bậc cao nhất ở trên đời! Nay là đời sống cuối cùng, không còn phải tái sanh ở đời này nữa". Vì rằng, bạch Thế Tôn, con thọ trì sự việc này, bạch Thế Tôn, là một hy hữu, một vị tằng hữu của Thế Tôn.

Vài ý kiến về tư liệu

Ba tháng sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, cuộc kiết tập đầu tiên đã diễn ra nhằm bảo lưu những lời dạy của Đức Phật. Trải qua nhiều kỳ kiết tập, kinh điển vẫn được lưu giữ dưới dạng học thuộc và truyền miệng. Kinh điển được truyền miệng ít nhất là 400 năm sau khi Đức Phật nhập diệtdựa vào trí nhớ của người đọc kinh (Bhanaka). Theo lịch sử Phật giáo, mãi đến gần cuối thế kỷ thứ nhất trước Tây lịch, kinh điển mới được ghi lại bằng chữ viết, trong cuộc kiết tập lần thứ 4.

Nhận định về tuyên ngôn trong Kinh tập (Sutta Nipata):

Đây là tư liệu khá chính xác, gần với lịch sử Đức Phật nhất, được khẳng định và xác quyết bởi Hòa thượng Thích Minh Châu trong lời giới thiệu Kinh Tập (Sutta Nipata):

"Trước hết, Tập Suttanipàta viết bằng một thể văn Pàli xưa nhất và cổ kính nhất, so sánh với các thể văn chúng ta thường được gặp trong các Bộ Dìgha Nikàya (Trường Bộ), Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Samyutta Nikàya (Tương Ưng Bộ), Anguttara Nikàya (Tăng Chi Bộ). Nhiều thể văn gần với văn Vedà (Vệ Đà) được tìm thấy rất nhiều trong tập này, nhưng không tìm thấy trong các tập khác, như các danh từ và động từ số nhiều: sitàse, upatthitàse, caramàse. Các hình thức chủ cách số nhiều và sử dụng cách số ít của một số danh từ như: vinicchayà thế cho vinicchayàni, lakkhanà thế cho lakkhanàni, mantà thế cho mantàya. Ngoài ra, chúng ta thường gặp các nguyên mẫu Vedà như vippahàtane, sampayàtave, unnametave rất ít khi được tìm thấy trong các tập kinh khác. Nhiều khi chúng ta thấy một số danh từ đặc biệt như chữ datthu thế cho disvà, atisìtvà thế cho atikkamivà, maga thế cho migatumo thế cho so v.v... Những danh từ này rất gần với tiếng Vệ đà không tìm thấy ở các bộ kinh khác. Như vậy, chứng tỏ Tập Suttanipàta được viết trong thời kỳ xưa nhất của ngôn ngữ Pàli, chưa được trau chuốt lưu loát, nhiều âm điệu như ngôn ngữ Pàli sau này. Giá trị cổ kính của ngôn ngữ Pàli trong tập này đánh giá tánh chất nguyên thủy của tập Suttanipàta".

Có thể nói, trong các bộ kinh thuộc hệ Nikaya kể trên, tính thuần khiết, gần gũi với thực tế và ít dấu vết huyền thoại được thể hiện trong Kinh Tập (Sutta Nipata) khá rõ. Trong đoạn hội thoại vừa nêu ở trên trong Kinh Tập, các câu kệ 683-684 và câu 690, sự xưng tán được xuất hiện nhiều chỗ, và đây là lời xưng tán của chư Thiên:

"Ngài, chúng sanh tối thượng, Ngài, loài người tối thắng, bậc Ngưu Vương loài người, Thượng Thủ mọi sanh loại."

Và đến khi tiên nhân A Tư Đà xem tướng của Ngài thì đã thốt lên lời xưng tán như sau: Vị này bậc Vô thượng, "Tối thượng loài hai chân". Trong các đoạn còn lại của kinh Nalaka, thuộc Chương Ba, Đại Phẩm, Kinh Tập, không hề có dấu vết Thái tử tự mình phát ngôn hoặc tự mình đứng dậy đi lại. Trong tác phẩm "Đức Phật lịch sử", ông H. W. Schumann cũng căn cứ vào bản kinh này khi đề cập đến chi tiết đản sanh của thái tử(6). Và như vậy, tính tối ưu, tối thắng được bộc lộ qua hình hài và dáng vẻ khi đản sanh của thái tử, được khẳng định do khách thể, do tha nhân. Đây là một lưu ý quan trọng.

Nhận định về tuyên ngôn Nidanakatha:

Kế đến, trong Nidanakatha, sự xưng tán cũng tiếp tục thể hiện: các thần linhloài người dâng cúng ngài hương liệu, tràng hoa…và nói:

- Thưa đại nhân, ở đây không có ai bằng ngài và chắc chắn không có ai hơn ngài cả!

Ở đây, sự xưng tán cũng được thể hiện là do khách thể, là sự khẳng định từ khách thể. Tuy nhiên, bản văn không dừng lại vậy: Rồi ngài đi bảy bước, được vị đại Phạm thiên thần theo hầu cầm lọng trắng che đầu ngài, thần Suyama cầm quạt hầu và nhiều vị thần khác mang các biểu tượng hoàng gia. Đến bước thứ bảy, ngài dừng lại, cất tiếng rống như sư tử, một tiếng rống cao quý bắt đầu bằng:

- Ta là đấng tối tôn trên toàn thế giới.

Điều dễ dàng nhận thấy sự hoành tráng, trang nghiêm khi Ngài cất những bước đi đầu tiên cũng như thể hiện một sự tự khẳng định mạnh mẽ. Trong bản văn này, cả hai dấu hiệu khẳng định và được khẳng định trong tuyên ngôn đã được thể hiện.

Ở đây, xét trên phương diện văn bản học, "Các học giả ở Nam Á lẫn Âu châu đều xem bản văn Duyên Khởi Luận (Nidannakatha), phần giới thiệu tập sớ giải bộ kinh bổn sanh hay chuyện Tiền thân (Jataka), tập 1, của tạng Pali, là tiểu sử mẫu mực. Câu chuyện về nguồn gốc (Nidanakatha) này bắt đầu với sự mô tả các đời trước của Đức Phật, rồi phác họa các sự kiện chính từ thời ngài sinh ra đời: chứng đắc giác ngộ, hoạt động thuyết phápgiáo hóa các đệ tử. Chuyện ấy chấm dứt với việc ngài nhận sự cúng dường tinh xá Jetavana (Kỳ Viên). Mặc dù đây là một trong những tài liệu đầy đủ nhất về cuộc đời Đức Phật, tính cách đáng tin cậy của nó về mặt lịch sử vẫn bị hoài nghi, cần được bàn luận khi xét đến sự thực là nó được sáng tác gần một ngàn năm sau thời Đức Phật và thông thường được gán cho Budhaghosa (Phật Âm) vào thế kỷ thứ V"(7).

Nhận định về tuyên ngôn trong Trường BộTrung Bộ:

Cả Trường Bộ và Trung Bộ đầu như giống nhau về tuyên ngôn và sự xưng tán. Cả hai bản kinh đều có xự xưng tán và khẳng định của chư Thiên"Hoàng hậu sanh một bậc vĩ nhân". Sau đó, cả hai bản kinh đều thống nhất ở quan điểm: "Ngài nhìn khắp cả mọi phương, lớn tiếng như con ngưu vương, thốt ra lời như sau: "Ta là bậc tối thượng ở trên đời! Ta là bậc tối tôn ở trên đời. Ta là bậc cao nhất ở trên đời. Nay là đời sống cuối cùng, không còn phải tái sanh ở đời này nữa". Đây có thể xem là tuyên ngôn thứ nhất trong cuộc đời Đức Phật.

Vài nhận định bước đầuý nghĩa thực tiễn của tuyên ngôn

Đọc lịch sử Ấn Độ sơ kỳ có thể thấy, văn hóa ca ngâm, xưng tụng, tán thán được thể hiện khá đậm nét. Hình thức ca ngâm xưng tán được thể hiện nhiều nhất trong kinh văn Ấn Độ như các bộ Vệ đà, sử thi Mahabharata cũng như nhiều bộ sử khác. Lẽ tất nhiên, sự xưng tán Đức Thế Tôn khi ngài vừa giáng trần cũng là một điều có thể xảy ra trong không gian văn hóa của đất nước này. Điều dễ dàng nhận thấy, với những dấu hiệu đặc thù của một vị vương tử vừa đản sanh, các vị tướng số, tiên nhân thời đó, với khả năng của mình, đều đi đến nhận định chung: Ngài là một đấng tối thắng. Đây là điều mà có thể thấy rõ nhất trong Kinh Tập, trong phần đầu của đoạn trích dẫn Nidanakatha, Trường Bộ và Trung Bộ. Lời xưng tán có nội dung tương tự như thế này, có thể gặp rất nhiều trong kinh điển. Ở đây, nhận định chung vừa nêu ở trên, có thể được xem là tuyên ngôn phi ngôn ngữ, một tuyên ngôn không phải do ngài nói ra mà do những dấu hiệu từ nhân cách sơ sinh buổi đầu của ngài bộc lộ ra.

Kế đến, cả hai truyền thống kinh điển và thậm chí kinh điển của Bà La Môn đều khẳng định rằng hoàn cảnh ra đời của Đức Phật rất đặc thù. Có những dấu hiệu riêng báo hiệu sự xuất hiện của một nhân cách lớn. Đây là điều thường thấy trong lịch sử xuất hiện của các bậc vĩ nhân. Căn cứ vào kết quả những cuộc khai quật của ngành khảo cổ học ở Tilaura Kot và các khu vực phụ cận ở Nepal, đã phát hiện ra một dấu chân in trên đá, được xem là dấu chân của Thái tử khi ngài đản sanh. Tính xác thực của chi tiết này chưa biết đến độ nào, nhưng chúng tôi chứng kiến rõ ràng là, dấu chân này hiện đang lưu giữ cẩn thận trong khu thánh tích Lumbini ở Nepal. Cho nên, tất sẽ không có điều gì lạ lùng khi kinh điển mô tả vừa hạ sinh, thái tử đã đi bảy bước và tuyên thuyết: "Ta là bậc tối thượng ở trên đời! Ta là bậc tối tôn ở trên đời. Ta là bậc cao nhất ở trên đời". Có lẽ đây là tuyên ngôn đầu tiên của Đức Phật được cả hai truyền thống Nam truyền và Bắc truyền chấp nhận, chỉ khác nhau một vài từ do cách chuyển dịch hoặc biểu đạt của văn tự.

Trả lời được câu hỏi vì sao có tuyên ngôn này, là có thể phần nào thẩm thấu được ý nghĩa của biểu tượng đản sanh. Theo quan điểm của Phật Quang Đại Từ Điển, trong bối cảnh có rất nhiều tôn giáoẤn Độ thời ấy, có tới 96 tông phái, tuyên ngôn của Đức Phật là sự khẳng định một chỗ nương tựa vững chắc, một con đường tối thắng, nhằm dẫn dắt chúng sanh thoát khỏi mê lầm, khổ đau. "Vì ở Ấn Độ thời bấy giờ có 96 thứ ngoại đạo, đều tự gọi là Đại thánh, là thầy trời và người, vì muốn khiến tà về chính nên Đức Thế Tôn thị hiện tướng đi bảy bước, giơ tay lên trời, nói: "Duy ngã độc tôn" để biểu thị trong ba cõi chỉ có Phật là tôn quý, sẽ cứu độ tất cả trời, người dứt khổ sống chết, khiến cho chúng sanh đều được an vui"(8). Theo tư duy trung đạo, lý giải về tuyên ngôn như vậy chưa thực sự thỏa đáng và chưa phù hợp trong cả hai truyền thống.

Theo quan điểm của Hajime Nakamura, "có thể phân tích cách suy nghĩ đằng sau câu nói này trong ba giai đoạn:

1. Tất cả chúng sanh đều bình đẳng

2. Người nào nhận thức rằng, tất cả chúng sanh đều bình đẳng thì đáng được tôn kính.

3. Chỉ Đức Phật dạy rằng, tất cả chúng sanh đều bình đẳng, vì vậy Ngài đáng được tôn kính.

Lòng tín ngưỡng của các đời sau nhấn mạnh bản tính siêu nhân của Đức Phật. Do đó nhiều người nhận thấy không có gì mâu thuẫn khi phát biểu chỉ Đức Phật duy nhất giữa tất cả nhân sinh là đáng tôn kính, nhưng sự thay đổi này phải được xem như bước thụt lùi trong ý nghĩa triết lý. Dẫu sao, trong từ ngữ biểu tượng, thì cổ tích này muốn nói rằng "Ta - đó là bản ngã nguyên thủy của mỗi con người - là đáng tôn kính"(9).

Trong một chừng mực nào đó, ở tầng nghĩa thứ nhất, tuyên ngôn khi đản sanh của thái tử, dù do người khác nói hay do thái tử nói đều khẳng định một điều: Đức Phật là bực tối thắng và đáng được tôn kính nhất trong các cõi. Ở đây, dù tự mình xưng tán hay do người khác xưng tán, phải thấy rõ một điều rằng, Đức Phật đã thênh thang bất động trước mọi sự khen chê và đây chính là nhân cách tối thắng của Đức PhậtỞ đời, không nghĩ mình bằng, hơn hay thua người(10).

Ở tầng nghĩa thứ hai, khi chủ thể trong tuyên ngôn được dịch là ta, là duy nhất, thì cần phải hiểu vai trò độc lập, tự chủ của mỗi cá thể được khẳng định và đề cao. Xuyên suốt trong nhiều kinh điển, Đức Phật nói rõ và đề cao vai trò tự chủ của cá nhân. Con người có thể tự quyết định vận mạng của mình. Ngu si hay thấp hèn, thông minh hoặc u tối, trói buộc hay giải thoát… đều do chính mình quyết định. Quan điểm này như một tiếng sét giữa thinh không, xé toang sự nhập nhoạng của màn đêm sức mạnh thần linh, luôn bao trùm và chi phốixã hội cổ đại Ấn ĐộBần tiện không vì sanh, Phạm chí không vì sanh, Do hành, thành bần tiện, Do hành, thành Phạm chí (11).

Khảo sát về tuyên ngôn của Đức Phật để thấy được giá trị ưu thắng của một phương thức sống mới và tâm thế của con người thời ấy khi chứng kiến một sự kiện hy hữu từ xưa đến nay: Ngày Đản sanh của Đức Từ Phụ.

Chúc Phú (Nguyệt San Giác Ngộ- Phật Đản PL.2555,số 182

(1) Viện ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt phổ thông, NXB. TP. HCM, tr 984. Tuyên ngôn: bản tuyên bốtính chất cương lĩnh của một chính đảng, một tổ chức; 2, Đào Duy Anh, Hán Việt từ điển, NXB. Văn hóa Thông tin, 2005, tr.779. Tuyên ngôn: Nói rõ với công chúng. (2) Đại tạng kinh Việt Nam, Kinh Tiểu Bộ, tập 1, Chương Ba, Đại Phẩm, Kinh Nalaka, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB. TP.HCM, 2000, tr.666. (3) Nadana Katha, dẫn lại từ: Hajime Nakamura, Đức Phật Gotama, một tiểu sử căn cứ vào những bản kinh uy tín nhất, Trần Phương Lan dịch, NXB.Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam tại TP.HCM, 2011, tr.92-93. (4) Đại tạng kinh Việt Nam, Trường Bộ, tập 1, HT.Thích Minh Châu, dịch, NXB. TP. HCM, 1991, tr. 451 & 453. (5) Đại tạng kinh Việt Nam, Kinh Trung Bộ, tập 3, HT.Thích Minh Châu, dịch, NXB. TP. HCM, 1992, tr. 324 & 326. (6) H. W. Schumann, Đức Phật lịch sử, Trần Phương Lan dịch, NXB. TP. HCM, 2000, tr.43. (7) Hajime Nakamura, sđd, tr.22. (8) Xem, Phật quang đại từ điển, Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc xuất bản, 2000, tr.1346. (9) Hajime Nakamura, sđd, tr.105-106. (10) Đại tạng kinh Việt Nam, Kinh Tiểu Bộ, tập 1, Chương Bốn, Phẩm tám, Kinh Trước khi bị hủy hoại, kệ 855, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB. TP.HCM, 2000, tr.724. (11) Đại tạng kinh Việt Nam, Kinh Tiểu Bộ, tập 1, Chương Một - Phẩm Rắn, Uragavagga, Kinh Kẻ Bần Tiện, Vasalasuttam, kệ 136, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB. TP. HCM, 2000, tr. 504-505

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12209)
Tự học tiếng Tây Tạng - Tạng Ngữ Hiện Đại - Losang Thonden, Việt dịch: Konchog Kunzang Tobgyal
(Xem: 143373)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 6916)
Với tinh thần đó, trong khi chuyển ngữ ra tiếng Việt thời nay, việc gỡ bỏ ba chữ đó là hoàn toàn hợp lẽ... Hoằng Quảng
(Xem: 11818)
Nội dung tu học Phật pháp nước ta đại bộ phận đều phát xuất từ các kinh điển Hán dịch... HT Thích Phước Sơn
(Xem: 8558)
Thế giới này là một chuỗi dài nhân duyên nương tựa vào nhau mới bảo tồn sự sống... Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 19792)
Tu Tâm, Dưỡng Tánh, Nhân quả, Tứ diệu đế, Từ bi, Chữ Hòa, Yếu tố hòa bình... HT Thích Thiện Hoa
(Xem: 9203)
Một bản ngã khi muốn có được cái gì từ người khác thường thích đóng vai một nhân vật nào đó để làm cho nhu cầu của nó được đáp ứng... Eckhart Tolle
(Xem: 10757)
Sắc Tức Là Không, Không Tức Là Sắc - Nguyên tác: Cư sĩ Lý Nhất Quang, HT Thích Thắng Hoan dịch Việt ngữ
(Xem: 13497)
Biểu tượng quốc gia của các nước như Thái Lan, Indonesia, và thủ đô Ulan Bator (Mông Cổ) là hình tượng chim thần Garuda... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 11384)
La Sát là từ được phiên âm của Rakshasa/ Raksha (Sanskrit) là một sinh vật thần thoạihình dáng, tính cách của loài người hoặc quỷ thần bất thiện trong Hindu giáo và Phật giáo... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 9286)
Ở xứ ta, sinh vật thần thoại Khẩn Na La, trong kinh văn Phật giáo là một trong “bát bộ chúng”. Trong mỹ thuật cổ, sinh vật thần thoại Kinnara này được giới nghiên cứu gọi là “Tiên nữ đầu người mình chim”... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 14383)
Muốn sáng lại ánh sáng sẵn có, muốn sống lại lẽ sống như thực, Thái-Hư Đại-Sư thâu tóm tinh-hoa Phật-học thành cuốn sách nhỏ nầy... HT Thích Tâm Châu
(Xem: 7227)
Lâu nay mỗi chúng ta theo đạo Phật nhưng có nhiều điểm nghi ngờ, thấy đạo Phật hình như tiêu cực, đa số chùa chiền đều ở trên núi, cách xa thành thị... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 32422)
Vào ngày trăng tròn tháng năm năm 623 trước Tây lịch, một hoàng tử thuộc bộ tộc Thích Ca (1) của Ấn Ðô, tên là Tất Ðạt Ða (Siddhattha) họ Cồ Ðàm (Gotama) đã ra đời... HT Thích Trí Chơn
(Xem: 13042)
Đạo Phật đã chung sống với người dân Việt gần hai mươi thế kỷ, sợi dây liên lạc đã thắt chặt đạo Phật với dân tộc Việt Nam thành một khối bất khả phân ly... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 20886)
Phật giáo Huế là cái nôi của sự giữ gìn truyền thống thống nhất Phật giáo trong cả nước... Thích Hải Ấn
(Xem: 39065)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 7089)
Trích dịch từ nguyên tác “A Complete Guide to the Buddhist Path” by Khenchen Konchog Gyaltshen, edited by Khenmo Trinlay Chödrön, Thanh Liên dịch sang Việt ngữ
(Xem: 8902)
Một cơn đau đớn cực độ cũng có thể đưa đến một thể dạng giác ngộ nào đó giúp mình mở rộng tâm thức và con tim hướng vào kẻ khác.
(Xem: 6701)
Tờ nhật báo uy tín Le Monde của Pháp ngày 18/9/2013 đã nêu lên các mưu đồ và tham vọng quốc tế nhằm khai thác thánh địa Phật Giáo Lâm-tì-ni ... Hoang Phong
(Xem: 9681)
Bất nhị là không phải hai hay nhiều, cũng không phải một, mà là vô lượng hay không có số lượng. Số lượng là số đếm chỉ có trong thế giới tương đối, nhị nguyên... Truyền Bình
(Xem: 9401)
Thầy Tuệ Sỹ viết: “Bởi vì con cá dưới lòng sông không làm sao hiểu nổi chuyện kể đầy tính hoang đường của con rùa sau những chuyến du hành trên đất liền..." Đặng Công Hanh
(Xem: 7972)
Cứ một ngàn dải Ngân hà được tính là một tiểu thiên thế giới, một ngàn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới, một ngàn trung thiên thế giới là một đại thiên thế giới... Nhụy Nguyên
(Xem: 11710)
Các khoa học gia đã tìm thấy Thiền tập đều đặn có thể thay đổi cơ cấu hoạt độnghệ thống kinh mạch bên trong não bộ... Nguyên tác: Marc Kaufman; Trần Như Mai dịch
(Xem: 16056)
Phật giáo được truyền đến Sri Lanka từ thế kỷ thứ III trước Tây lịch. Và phần lớn thời gian trong suốt hơn 2.000 năm, Phật giáo được xem quốc giáo tại đảo quốc này... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 9564)
Chúng tôi hi vọng tập sách nhỏ này sẽ giúp ích phần nào cho sự tu học của đại chúng. Chúng tôi cũng mong mỏi được các bậc cao minh tôn túc chỉ bảo cho những điều sai sót mà chúng tôi biết chắc chắn là không thể nào tránh khỏi được.
(Xem: 12177)
Theo kinh điển, hai truyền thống Nam truyền và Bắc Truyền đều thừa nhận Đức Phật có đầy đủ 32 tướng quý... Thụy Nguyên
(Xem: 8744)
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa đưa người ta đến một sự chuyển hóa toàn triệt và toàn diện cuộc đời sanh tử khổ đau manh mún bởi chia cắt, phân biệt, oán ghét và xung đột của mình bằng cái thấy biết chân thật của Phật... Đương Đạo
(Xem: 15485)
Giáo Khoa Phật Học (3 Tập) Nguyên tác Hán ngữ của PHƯƠNG LUÂN cư sĩ, Cư sĩ HẠNH CƠ dịch và biên soạn bổ túc
(Xem: 7958)
Trong khi xem kinh, nên có con mắt trạch pháp để nhận định những lời nào Phật quyền thuyết, những lời nào Phật thật thuyết, những lời nào là chính yếu, những lời nào là phụ yếu...
(Xem: 17727)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 8604)
Lương Vũ Đế, tự Tiêu Diễn, lên ngôi vào năm 37 tuổi, tại vị 49 năm, thọ 86 tuổi. Là vị vua sáng lập nên triều đại nhà Lương (502-556) trong giai đoạn Nam Bắc triều (420-589) của Trung Hoa.
(Xem: 8245)
“Nghiệp” là một danh từ triết học Ấn Độ có trước khi Đức Thích Ca xuất hiện. Ý nghĩa cơ bản của nó là “hành động” hoặc “thói quen”... Nguyễn Xuân Chiến
(Xem: 10467)
Nguyệt San Phật Giáo Việt Nam - Do Tổng hội Phật Giáo Việt Nam xuất bản năm 1956
(Xem: 15760)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 17434)
Danh từ tên gọi của Thủ Lư theo sách Trung Hoa Phật Quang Văn Hóa Thiên Phật Giáo Dụng Ngữ chép: "Thủ lư là lư hương cầm ở trên tay, còn gọi là Bỉnh hương lư, Thủ lư, Đề lư... Thích Tâm Mãn
(Xem: 7845)
Đại chúng bộbộ phái được xem là tiền thân của Phật giáo Đại thừa hoặc là bộ phái đóng góp nhiều trong lịch sử phát triển Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 12909)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 7953)
Phật dạy 20 điều khó không mang một sắc thái bi quan hay chán chường, mà nhằm chỉ dạy chúng ta phải ý thức rằng sự sống này phải nương nhờ lẫn nhau mới bảo tồn mạng sống trên nền tảng của nhân quả... Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 8541)
Đạo Phậtcon đường dẫn đến an vui giải thoát. Đức Phật là bậc đạo sư, là người dẫn đường chứ không phải là vị thần linh có quyền ban phước giáng họa cho ai... Hoàng Nguyên
(Xem: 9694)
Tam Nguyệt San Hải Triều Âm - Cơ quan phát khởi nền quốc học, Phật học, và Văn hóa Việt Nam do Tổng Vụ Văn Hóa GHPGVNTN chủ trương từ 1973 đến 1975
(Xem: 10277)
Mục đích duy nhấtcuối cùng của con đường học Phật, tu Phật chính là thoát khỏi sinh tử. Trên đường đi tới điểm đích ấy, nền tảng chủ yếu hướng dẫn người tu Phật xuất gia lẫn tại gia không bị lạc lối được xem là sự nghiệp trí tuệ... Đoàn Ánh Loan
(Xem: 23129)
Giới luậtsinh mệnh, là sự sống của Phật tử, nhất là của hàng Tỳ kheo thừa Như lai sứ, hành Như lai sự... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 19236)
Ba học Giới, Định, Tuệ là những nhân tố then chốt nhất của người học Phật, như chiếc đỉnh ba chân, thiếu một tất không thể đứng vững. Nhưng giới học, hay là giới luật học, lại là căn bản nhất... HT Thích Thanh Kiểm
(Xem: 9969)
Tuần San Đuốc Tuệ 1965 - Cơ Quan Phát huy tinh thần Phật Giáo, Khai triển văn hóa dân tộc - Miền Vĩnh Nghiêm trong GHPGVNTN 1965
(Xem: 8169)
Đặc San Hoằng Pháp Dharmaduta - Cơ Quan Truyền Bá Chánh Pháp Của GHPGVNTN 1973
(Xem: 24101)
Từ Điển Pháp Số Tam Tạng - Nguyên tác: Pháp sư Thích Nhất Như, Cư sĩ Lê Hồng Sơn dịch
(Xem: 8763)
Thế Thân, tác giả của bộ luận này vốn là một khai sĩ có quá nhiều truyền thuyết và ít nhiều sương khói trùm lên tiểu sử của ngài, đến nỗi cho đến nay, các học giả cũng chưa xác định được Thế Thân là ai.
(Xem: 8408)
Có thể nói rằng quan điểm bình đẳng về khả năng giải thoát tâm linh do Đức Phật đưa ra có một ý nghĩa cách mạng xã hội đáng kể...
(Xem: 7946)
Những hố thẳm triết lý mà Phạm Công Thiện nhắc tới là những hố thẳm tuyệt vọng của triết lý Tây Phương khi chưa tìm ra ngỏ thoát... Quán Như
(Xem: 17681)
Đức Phật nêu lên tánh không như là một thể dạng tối thượng của tâm thức không có gì vượt hơn được và xem đấy như là một phương tiện mang lại sự giải thoát... Hoang Phong dịch
(Xem: 9422)
Hãy hướng tâm vào bên trong và cố gắng tìm niềm vui ở bên trong. Chỉ khi tâm đã được kiềm chế và dẫn dắt đúng hướng thì nó mới có ích cho chủ của nó và xã hội.
(Xem: 8144)
Lôgic học Phật giáo được hình thành trước logic học Aristote gần hai trăm năm. Hệ thống lôgic của Phật giáo "thực tế" hơn và mang một chủ đích hay ứng dụng rõ rệt hơn... Hoang Phong
(Xem: 24238)
Lược Sử Phật Giáo Trung Quốc (Từ thế kỷ thứ I sau CN đến thế kỷ thứ X) - Tác giả Viên Trí
(Xem: 24551)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 8351)
Triết học Trung quán kêu gọi sự chú ý của chúng ta, như một hệ thống đã tạo nên cuộc cách mạng trong đạo Phật và qua đó, toàn lĩnh vực triết học Ấn Độ.
(Xem: 8183)
Giới Thiệu Tóm Tắt Về Bộ Trung Quán Trong Tạng Luận Theo Đại Tạng Kinh Đại Chánh Tân Tu ... Đào Nguyên
(Xem: 7770)
Thưa Đại Vương, những người, có được tài sản lớn, mà không bị chúng làm say đắm... rất hiếm hoi trên đời này... Diệu Liên Lý Thu Linh
(Xem: 7793)
Bạo lực, khủng bố đã xảy ra dưới nhiều hình thức khác nhau trong những trường hợp khác nhau có liên quan đến cuộc đời của đức Phật... Thích Huệ Pháp dịch
(Xem: 8933)
Chánh Ngoa Tập (Uốn nắn những điều sai ngoa) trích từ bộ Vân Thê Pháp Vựng, Đời Minh, chùa Vân Thê ở Cổ Hàng, Sa-môn Châu Hoằng soạn, Như Hòa dịch.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant