Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Khảo Về Tuyên Ngôn Đản Sanh

27 Tháng Tư 201918:56(Xem: 4639)
Khảo Về Tuyên Ngôn Đản Sanh
KHẢO VỀ TUYÊN NGÔN ĐẢN SANH

Chúc Phú
Khảo Về Tuyên Ngôn Đản Sanh
Giữa thế giới Nhơn, Thiên, không có ai bằng Ta1
(Sadevakasmiṃ lokasmiṃ, natthi me paṭipuggalo)


Đức Phật
không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay. Và do vậy, chữ tuyên ngôn theo định nghĩa của các bộ từ điển ngày nay(1) chưa thể biểu đạt trọn vẹn những điều mà Đức Phật đã trình bày, vì chúng sẽ dừng lại trong giới hạn của ngôn ngữ chuyển tải.

Trong sự biện biệt của ngôn ngữ, tuyên ngôn được hiểu ở đây là sự lập ngôn, là sự quảng bố, khẳng định hoặc được khẳng định một giá trị đích thực nào đó. Tuyên ngôn được xem là đầu tiên trong cuộc đời Đức Phật, là lời nói trong lúc đản sanh của Ngài.

Cơ sở kinh điển

Điều dễ dàng nhận thấy, có rất nhiều kinh điển đề cập đến sự kiện này, trải đều trên cả hai hệ thống kinh điển Nikaya và kinh điển Phật giáo Bắc truyền. Điều đó cho thấy rằng, đây là một vấn đề rất mực quan trọng. Trong khuôn khổ một lược khảo bước đầu, chúng tôi tạm khảo sát ở hệ thống Nikaya.

1- Kinh Tiểu Bộ (Khuddaka Nikàya)

a) Kinh Tập (Sutta Nipata), Chương 3, Đại Phẩm, Kinh Nalaka, câu kệ 683-684(2):

Câu chuyện nói về ẩn sĩ Asita (A Tư Đà) đoán tướng cho Thái tử. Asita thấy chư Thiên vui mừng liền hỏi duyên cớ. Chư thiên đáp:

"Tại xứ Lâm Tì Ni
Trong làng các Thích Ca,

Có sanh vị Bồ tát
Báu tối thắng, vô tỷ.
Ngài sanh, đem an lạc
Hạnh phúc cho loài người,
Do vậy chúng tôi mừng
Tâm vô cùng hoan hỷ.
Ngài, chúng sanh tối thượng
Ngài, loài người tối thắng,
Bậc Ngưu Vương loài người
Thượng Thủ mọi sanh loại.
Ngài sẽ chuyển Pháp luân,
Trong khu rừng ẩn sĩ,
Rống tiếng rống sư tử,
Hùng mạnh, nhiếp loài thú".

Và câu kệ tiếp theo nói về một vị ẩn sĩ bện tóc, tên Kà-ha-xi-ri:

690. Sau khi ẵm bồng lên
Con trai dòng họ Thích,
Bậc cầu đạo tìm hiểu,
Vượt khổ, nhờ tướng, chú,
Tâm tư được hoan hỷ,
Thốt lên lời như sau:
Vị này bậc Vô thượng,
"Tối thượng loài hai chân".

b) Kinh Bổn Sanh (Jataka), Phần Nidana Katha (Duyên khởi luận):

Khi Bồ tát rời khỏi tay mọi người, ngài đứng thẳng trên mặt đất, nhìn về hướng Đông trước mặt ngài có muôn ngàn thế giới trải rộng. Các thần linhloài người dâng cúng ngài hương liệu, tràng hoa… và nói:

- Thưa đại nhân, ở đây không có ai bằng ngài và chắc chắn không có ai hơn ngài cả!

Khi ngài đã nhìn bao quát bốn phương chính đông tây nam bắc và bốn phương giữa cùng trên trời dưới đất, ngài không thấy ai bằng ngài cả, và ngài tuyên bố:

- Đây là phương Bắc.

Rồi ngài đi bảy bước, được vị đại phạm thiên thần theo hầu cầm lọng trắng che đầu ngài, thần Suyama cầm quạt hầu và nhiều vị thần khác mang các biểu tượng hoàng gia. Đến bước thứ bảy, ngài dừng lại, cất tiếng rống như sư tử, một tiếng rống cao quý bắt đầu bằng:

- Ta là đấng tối tôn trên toàn thế giới (3).

2- Trường Bộ Kinh (Digha Nikaya)

14. Kinh Đại Bổn(Mahàpadàna sutta)(4):

Đây là bài kinh Đức Phật thuyết giảng tại nước Sàvatthi (Xá Vệ) rừng Jeta (Kỳ Đà), vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô Độc), trong am thất cây Kareri (Hoa Lâm), Ngài thuyết về tiền thân sáu vị Phật quá khứbản thân của Ngài. Đản sanh như vậy, thành đạo như vậy thuyết giảng như vậy và giải thoát như vậy. Đoạn sau đây miêu tả sự kiện đản sanh của Đức Phật quá khứ Tỳ Bà Thi (Vipassì).

26. Này các Tỷ kheo, pháp nhĩ là như vậy. Khi vị Bồ tát từ bụng mẹ sanh ra, vị Bồ tát không đụng đến đất. Có bốn Thiên tử đỡ lấy Ngài, đặt Ngài trước bà mẹ và thưa: "Hoàng hậu hãy hoan hỷ. Hoàng hậu sanh một bậc vĩ nhân". Pháp nhĩ là như vậy.

***

29. Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Vị Bồ-tát khi sanh ra, Ngài đứng vững, thăng bằng trên hai chân, mặt hướng phía Bắc, bước đi bảy bước, một lọng trắng được che trên. Ngài nhìn khắp cả mọi phương, lớn tiếng như con ngưu vương, thốt ra lời như sau: "Ta là bậc tối thượng ở trên đời! Ta là bậc tối tôn ở trên đời. Ta là bậc cao nhất ở trên đời. Nay là đời sống cuối cùng, không còn phải tái sanh ở đời này nữa". Pháp nhĩ là như vậy.

3- Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikaya)

23. Kinh Hy hữu vị tằng hữu pháp(Acchariya-abbhùtadhamma sutta)(5):

Bạch Thế Tôn, con tận mặt nghe, con tận mặt ghi nhớ từ Thế Tôn: "Khi Bồ tát từ bụng mẹ sanh ra, này Ananda, Bồ tát không đụng đến đất. Có bốn Thiên tử đỡ lấy Ngài, đặt Ngài trước bà mẹ và thưa: "Hoàng hậu hãy hoan hỷ! Hoàng hậu sanh một bậc vĩ nhân". Vì rằng, bạch Thế Tôn, con thọ trì sự việc này, bạch Thế Tôn, là một hy hữu, một vị tằng hữu của Thế Tôn.

***

Bạch Thế Tôn, con tận mặt nghe, con tận mặt ghi nhớ từ Thế Tôn: "Bồ-tát khi sanh ra, này Ananda, Ngài đứng vững, thăng bằng trên hai chân, mặt hướng phía Bắc, bước đi bảy bước, một lọng trắng được che lên. Ngài nhìn khắp cả mọi phương, lên tiếng như con ngưu vương, thốt ra lời như sau: "Ta là bậc tối thượng ở trên đời! Ta là bậc tối tôn ở trên đời! Ta là bậc cao nhất ở trên đời! Nay là đời sống cuối cùng, không còn phải tái sanh ở đời này nữa". Vì rằng, bạch Thế Tôn, con thọ trì sự việc này, bạch Thế Tôn, là một hy hữu, một vị tằng hữu của Thế Tôn.

Vài ý kiến về tư liệu

Ba tháng sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, cuộc kiết tập đầu tiên đã diễn ra nhằm bảo lưu những lời dạy của Đức Phật. Trải qua nhiều kỳ kiết tập, kinh điển vẫn được lưu giữ dưới dạng học thuộc và truyền miệng. Kinh điển được truyền miệng ít nhất là 400 năm sau khi Đức Phật nhập diệtdựa vào trí nhớ của người đọc kinh (Bhanaka). Theo lịch sử Phật giáo, mãi đến gần cuối thế kỷ thứ nhất trước Tây lịch, kinh điển mới được ghi lại bằng chữ viết, trong cuộc kiết tập lần thứ 4.

Nhận định về tuyên ngôn trong Kinh tập (Sutta Nipata):

Đây là tư liệu khá chính xác, gần với lịch sử Đức Phật nhất, được khẳng định và xác quyết bởi Hòa thượng Thích Minh Châu trong lời giới thiệu Kinh Tập (Sutta Nipata):

"Trước hết, Tập Suttanipàta viết bằng một thể văn Pàli xưa nhất và cổ kính nhất, so sánh với các thể văn chúng ta thường được gặp trong các Bộ Dìgha Nikàya (Trường Bộ), Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Samyutta Nikàya (Tương Ưng Bộ), Anguttara Nikàya (Tăng Chi Bộ). Nhiều thể văn gần với văn Vedà (Vệ Đà) được tìm thấy rất nhiều trong tập này, nhưng không tìm thấy trong các tập khác, như các danh từ và động từ số nhiều: sitàse, upatthitàse, caramàse. Các hình thức chủ cách số nhiều và sử dụng cách số ít của một số danh từ như: vinicchayà thế cho vinicchayàni, lakkhanà thế cho lakkhanàni, mantà thế cho mantàya. Ngoài ra, chúng ta thường gặp các nguyên mẫu Vedà như vippahàtane, sampayàtave, unnametave rất ít khi được tìm thấy trong các tập kinh khác. Nhiều khi chúng ta thấy một số danh từ đặc biệt như chữ datthu thế cho disvà, atisìtvà thế cho atikkamivà, maga thế cho migatumo thế cho so v.v... Những danh từ này rất gần với tiếng Vệ đà không tìm thấy ở các bộ kinh khác. Như vậy, chứng tỏ Tập Suttanipàta được viết trong thời kỳ xưa nhất của ngôn ngữ Pàli, chưa được trau chuốt lưu loát, nhiều âm điệu như ngôn ngữ Pàli sau này. Giá trị cổ kính của ngôn ngữ Pàli trong tập này đánh giá tánh chất nguyên thủy của tập Suttanipàta".

Có thể nói, trong các bộ kinh thuộc hệ Nikaya kể trên, tính thuần khiết, gần gũi với thực tế và ít dấu vết huyền thoại được thể hiện trong Kinh Tập (Sutta Nipata) khá rõ. Trong đoạn hội thoại vừa nêu ở trên trong Kinh Tập, các câu kệ 683-684 và câu 690, sự xưng tán được xuất hiện nhiều chỗ, và đây là lời xưng tán của chư Thiên:

"Ngài, chúng sanh tối thượng, Ngài, loài người tối thắng, bậc Ngưu Vương loài người, Thượng Thủ mọi sanh loại."

Và đến khi tiên nhân A Tư Đà xem tướng của Ngài thì đã thốt lên lời xưng tán như sau: Vị này bậc Vô thượng, "Tối thượng loài hai chân". Trong các đoạn còn lại của kinh Nalaka, thuộc Chương Ba, Đại Phẩm, Kinh Tập, không hề có dấu vết Thái tử tự mình phát ngôn hoặc tự mình đứng dậy đi lại. Trong tác phẩm "Đức Phật lịch sử", ông H. W. Schumann cũng căn cứ vào bản kinh này khi đề cập đến chi tiết đản sanh của thái tử(6). Và như vậy, tính tối ưu, tối thắng được bộc lộ qua hình hài và dáng vẻ khi đản sanh của thái tử, được khẳng định do khách thể, do tha nhân. Đây là một lưu ý quan trọng.

Nhận định về tuyên ngôn Nidanakatha:

Kế đến, trong Nidanakatha, sự xưng tán cũng tiếp tục thể hiện: các thần linhloài người dâng cúng ngài hương liệu, tràng hoa…và nói:

- Thưa đại nhân, ở đây không có ai bằng ngài và chắc chắn không có ai hơn ngài cả!

Ở đây, sự xưng tán cũng được thể hiện là do khách thể, là sự khẳng định từ khách thể. Tuy nhiên, bản văn không dừng lại vậy: Rồi ngài đi bảy bước, được vị đại Phạm thiên thần theo hầu cầm lọng trắng che đầu ngài, thần Suyama cầm quạt hầu và nhiều vị thần khác mang các biểu tượng hoàng gia. Đến bước thứ bảy, ngài dừng lại, cất tiếng rống như sư tử, một tiếng rống cao quý bắt đầu bằng:

- Ta là đấng tối tôn trên toàn thế giới.

Điều dễ dàng nhận thấy sự hoành tráng, trang nghiêm khi Ngài cất những bước đi đầu tiên cũng như thể hiện một sự tự khẳng định mạnh mẽ. Trong bản văn này, cả hai dấu hiệu khẳng định và được khẳng định trong tuyên ngôn đã được thể hiện.

Ở đây, xét trên phương diện văn bản học, "Các học giả ở Nam Á lẫn Âu châu đều xem bản văn Duyên Khởi Luận (Nidannakatha), phần giới thiệu tập sớ giải bộ kinh bổn sanh hay chuyện Tiền thân (Jataka), tập 1, của tạng Pali, là tiểu sử mẫu mực. Câu chuyện về nguồn gốc (Nidanakatha) này bắt đầu với sự mô tả các đời trước của Đức Phật, rồi phác họa các sự kiện chính từ thời ngài sinh ra đời: chứng đắc giác ngộ, hoạt động thuyết phápgiáo hóa các đệ tử. Chuyện ấy chấm dứt với việc ngài nhận sự cúng dường tinh xá Jetavana (Kỳ Viên). Mặc dù đây là một trong những tài liệu đầy đủ nhất về cuộc đời Đức Phật, tính cách đáng tin cậy của nó về mặt lịch sử vẫn bị hoài nghi, cần được bàn luận khi xét đến sự thực là nó được sáng tác gần một ngàn năm sau thời Đức Phật và thông thường được gán cho Budhaghosa (Phật Âm) vào thế kỷ thứ V"(7).

Nhận định về tuyên ngôn trong Trường BộTrung Bộ:

Cả Trường Bộ và Trung Bộ đầu như giống nhau về tuyên ngôn và sự xưng tán. Cả hai bản kinh đều có xự xưng tán và khẳng định của chư Thiên"Hoàng hậu sanh một bậc vĩ nhân". Sau đó, cả hai bản kinh đều thống nhất ở quan điểm: "Ngài nhìn khắp cả mọi phương, lớn tiếng như con ngưu vương, thốt ra lời như sau: "Ta là bậc tối thượng ở trên đời! Ta là bậc tối tôn ở trên đời. Ta là bậc cao nhất ở trên đời. Nay là đời sống cuối cùng, không còn phải tái sanh ở đời này nữa". Đây có thể xem là tuyên ngôn thứ nhất trong cuộc đời Đức Phật.

Vài nhận định bước đầuý nghĩa thực tiễn của tuyên ngôn

Đọc lịch sử Ấn Độ sơ kỳ có thể thấy, văn hóa ca ngâm, xưng tụng, tán thán được thể hiện khá đậm nét. Hình thức ca ngâm xưng tán được thể hiện nhiều nhất trong kinh văn Ấn Độ như các bộ Vệ đà, sử thi Mahabharata cũng như nhiều bộ sử khác. Lẽ tất nhiên, sự xưng tán Đức Thế Tôn khi ngài vừa giáng trần cũng là một điều có thể xảy ra trong không gian văn hóa của đất nước này. Điều dễ dàng nhận thấy, với những dấu hiệu đặc thù của một vị vương tử vừa đản sanh, các vị tướng số, tiên nhân thời đó, với khả năng của mình, đều đi đến nhận định chung: Ngài là một đấng tối thắng. Đây là điều mà có thể thấy rõ nhất trong Kinh Tập, trong phần đầu của đoạn trích dẫn Nidanakatha, Trường Bộ và Trung Bộ. Lời xưng tán có nội dung tương tự như thế này, có thể gặp rất nhiều trong kinh điển. Ở đây, nhận định chung vừa nêu ở trên, có thể được xem là tuyên ngôn phi ngôn ngữ, một tuyên ngôn không phải do ngài nói ra mà do những dấu hiệu từ nhân cách sơ sinh buổi đầu của ngài bộc lộ ra.

Kế đến, cả hai truyền thống kinh điển và thậm chí kinh điển của Bà La Môn đều khẳng định rằng hoàn cảnh ra đời của Đức Phật rất đặc thù. Có những dấu hiệu riêng báo hiệu sự xuất hiện của một nhân cách lớn. Đây là điều thường thấy trong lịch sử xuất hiện của các bậc vĩ nhân. Căn cứ vào kết quả những cuộc khai quật của ngành khảo cổ học ở Tilaura Kot và các khu vực phụ cận ở Nepal, đã phát hiện ra một dấu chân in trên đá, được xem là dấu chân của Thái tử khi ngài đản sanh. Tính xác thực của chi tiết này chưa biết đến độ nào, nhưng chúng tôi chứng kiến rõ ràng là, dấu chân này hiện đang lưu giữ cẩn thận trong khu thánh tích Lumbini ở Nepal. Cho nên, tất sẽ không có điều gì lạ lùng khi kinh điển mô tả vừa hạ sinh, thái tử đã đi bảy bước và tuyên thuyết: "Ta là bậc tối thượng ở trên đời! Ta là bậc tối tôn ở trên đời. Ta là bậc cao nhất ở trên đời". Có lẽ đây là tuyên ngôn đầu tiên của Đức Phật được cả hai truyền thống Nam truyền và Bắc truyền chấp nhận, chỉ khác nhau một vài từ do cách chuyển dịch hoặc biểu đạt của văn tự.

Trả lời được câu hỏi vì sao có tuyên ngôn này, là có thể phần nào thẩm thấu được ý nghĩa của biểu tượng đản sanh. Theo quan điểm của Phật Quang Đại Từ Điển, trong bối cảnh có rất nhiều tôn giáoẤn Độ thời ấy, có tới 96 tông phái, tuyên ngôn của Đức Phật là sự khẳng định một chỗ nương tựa vững chắc, một con đường tối thắng, nhằm dẫn dắt chúng sanh thoát khỏi mê lầm, khổ đau. "Vì ở Ấn Độ thời bấy giờ có 96 thứ ngoại đạo, đều tự gọi là Đại thánh, là thầy trời và người, vì muốn khiến tà về chính nên Đức Thế Tôn thị hiện tướng đi bảy bước, giơ tay lên trời, nói: "Duy ngã độc tôn" để biểu thị trong ba cõi chỉ có Phật là tôn quý, sẽ cứu độ tất cả trời, người dứt khổ sống chết, khiến cho chúng sanh đều được an vui"(8). Theo tư duy trung đạo, lý giải về tuyên ngôn như vậy chưa thực sự thỏa đáng và chưa phù hợp trong cả hai truyền thống.

Theo quan điểm của Hajime Nakamura, "có thể phân tích cách suy nghĩ đằng sau câu nói này trong ba giai đoạn:

1. Tất cả chúng sanh đều bình đẳng

2. Người nào nhận thức rằng, tất cả chúng sanh đều bình đẳng thì đáng được tôn kính.

3. Chỉ Đức Phật dạy rằng, tất cả chúng sanh đều bình đẳng, vì vậy Ngài đáng được tôn kính.

Lòng tín ngưỡng của các đời sau nhấn mạnh bản tính siêu nhân của Đức Phật. Do đó nhiều người nhận thấy không có gì mâu thuẫn khi phát biểu chỉ Đức Phật duy nhất giữa tất cả nhân sinh là đáng tôn kính, nhưng sự thay đổi này phải được xem như bước thụt lùi trong ý nghĩa triết lý. Dẫu sao, trong từ ngữ biểu tượng, thì cổ tích này muốn nói rằng "Ta - đó là bản ngã nguyên thủy của mỗi con người - là đáng tôn kính"(9).

Trong một chừng mực nào đó, ở tầng nghĩa thứ nhất, tuyên ngôn khi đản sanh của thái tử, dù do người khác nói hay do thái tử nói đều khẳng định một điều: Đức Phật là bực tối thắng và đáng được tôn kính nhất trong các cõi. Ở đây, dù tự mình xưng tán hay do người khác xưng tán, phải thấy rõ một điều rằng, Đức Phật đã thênh thang bất động trước mọi sự khen chê và đây chính là nhân cách tối thắng của Đức PhậtỞ đời, không nghĩ mình bằng, hơn hay thua người(10).

Ở tầng nghĩa thứ hai, khi chủ thể trong tuyên ngôn được dịch là ta, là duy nhất, thì cần phải hiểu vai trò độc lập, tự chủ của mỗi cá thể được khẳng định và đề cao. Xuyên suốt trong nhiều kinh điển, Đức Phật nói rõ và đề cao vai trò tự chủ của cá nhân. Con người có thể tự quyết định vận mạng của mình. Ngu si hay thấp hèn, thông minh hoặc u tối, trói buộc hay giải thoát… đều do chính mình quyết định. Quan điểm này như một tiếng sét giữa thinh không, xé toang sự nhập nhoạng của màn đêm sức mạnh thần linh, luôn bao trùm và chi phốixã hội cổ đại Ấn ĐộBần tiện không vì sanh, Phạm chí không vì sanh, Do hành, thành bần tiện, Do hành, thành Phạm chí (11).

Khảo sát về tuyên ngôn của Đức Phật để thấy được giá trị ưu thắng của một phương thức sống mới và tâm thế của con người thời ấy khi chứng kiến một sự kiện hy hữu từ xưa đến nay: Ngày Đản sanh của Đức Từ Phụ.

Chúc Phú (Nguyệt San Giác Ngộ- Phật Đản PL.2555,số 182

(1) Viện ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt phổ thông, NXB. TP. HCM, tr 984. Tuyên ngôn: bản tuyên bốtính chất cương lĩnh của một chính đảng, một tổ chức; 2, Đào Duy Anh, Hán Việt từ điển, NXB. Văn hóa Thông tin, 2005, tr.779. Tuyên ngôn: Nói rõ với công chúng. (2) Đại tạng kinh Việt Nam, Kinh Tiểu Bộ, tập 1, Chương Ba, Đại Phẩm, Kinh Nalaka, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB. TP.HCM, 2000, tr.666. (3) Nadana Katha, dẫn lại từ: Hajime Nakamura, Đức Phật Gotama, một tiểu sử căn cứ vào những bản kinh uy tín nhất, Trần Phương Lan dịch, NXB.Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam tại TP.HCM, 2011, tr.92-93. (4) Đại tạng kinh Việt Nam, Trường Bộ, tập 1, HT.Thích Minh Châu, dịch, NXB. TP. HCM, 1991, tr. 451 & 453. (5) Đại tạng kinh Việt Nam, Kinh Trung Bộ, tập 3, HT.Thích Minh Châu, dịch, NXB. TP. HCM, 1992, tr. 324 & 326. (6) H. W. Schumann, Đức Phật lịch sử, Trần Phương Lan dịch, NXB. TP. HCM, 2000, tr.43. (7) Hajime Nakamura, sđd, tr.22. (8) Xem, Phật quang đại từ điển, Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc xuất bản, 2000, tr.1346. (9) Hajime Nakamura, sđd, tr.105-106. (10) Đại tạng kinh Việt Nam, Kinh Tiểu Bộ, tập 1, Chương Bốn, Phẩm tám, Kinh Trước khi bị hủy hoại, kệ 855, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB. TP.HCM, 2000, tr.724. (11) Đại tạng kinh Việt Nam, Kinh Tiểu Bộ, tập 1, Chương Một - Phẩm Rắn, Uragavagga, Kinh Kẻ Bần Tiện, Vasalasuttam, kệ 136, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB. TP. HCM, 2000, tr. 504-505

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4996)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 4384)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
(Xem: 4671)
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn.
(Xem: 4711)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng...
(Xem: 5877)
Có một chuyện rất khoa học, tôi không bắt quý vị phải nhắm mắt tin Phật nhưng tôi cho quý vị một gợi ý.
(Xem: 3310)
Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.
(Xem: 5280)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn
(Xem: 2946)
Hạnh phúctrạng thái cảm xúc khi ta thỏa mãn được nhu cầu nào đó của bản thân. Hạnh phúc khi được nhận. Có một loại hạnh phúc khác mà cảm xúc mang đến cho bạn nhiều hơn nữa: Đó là hạnh phúc từ sự cho đi.
(Xem: 4160)
Kỳ thực, trên đời này không ai có thể khiến chúng ta đau khổ ngoài chính bản thân mình, và cũng không ai có thể mang lại hạnh phúc cho chúng ta ngoài bản thân mình ra…
(Xem: 5298)
Bài kinh "Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước" là bài kinh ngắn, trích trong Kinh Tăng Chi Bộ, chương Ba, phẩm Kusinàra.
(Xem: 4277)
Đã gần vào Hạ mà đức Thế Tôn vẫn chưa khuyên giải được mâu thuẫn giữa hai nhóm Tỳ-kheo đều là đệ tử của Ngài.
(Xem: 3334)
Cuộc sống giản đơn sẽ tháo bỏ cho chúng ta những gông cùm trách nhiệm do chính chúng ta tự đeo vào cổ, giúp chúng ta có nhiều thời gian hơn để sống với những người thân yêu.
(Xem: 6367)
Bài kinh "Thanh Tịnh" là bài kinh ngắn, Đức Phật giảng cho các vị Tỷ-kheo khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 5356)
Sa-môn (Samana), Tỳ-kheo (Bhikkhu) hay Bí-sô (Bhiksu) là những danh xưng chỉ cho vị tu sĩ Phật giáo.
(Xem: 4643)
Kinh Trung A-Hàm được dịch sang Hán đầu tiên vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ mười chín (383) do một nhóm các vị tăng nhân người Ấn Độ nói chung thực hiện.
(Xem: 6258)
Trung đạo (madhyamā-pratipad) là con đường tu tập được kinh nghiệm từ chính Đức Phật.
(Xem: 6120)
Tâm lý thường tình của con người là tò mò, ưa những điều lạ lùng, kỳ dị và khác thường vì họ đã quá quen với cuộc sống bình thường, nên ...
(Xem: 3909)
Chúng sinh trong cõi “Dục giới” luôn chạy theo tìm cầu để hưởng thụ năm thứ dục lạc nên gọi là ngũ dục. Ngũ dục, chính là năm thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc.
(Xem: 6043)
Tứ động tâm là bốn Thánh tích thiêng liêng của Phật giáo tại Ấn Độ, ghi dấu bốn sự kiện trọng đại trong cuộc đờisự nghiệp hoằng hóa của Đức Phật Thích Ca.
(Xem: 4649)
Về mặt ngôn từ, thì chữ “công đức” là được dịch nghĩa từ chữ “punna” trong tiếng Pali. Tiếng Anh dịch thành chữ “merit”.
(Xem: 4809)
Nguyên nhân của sanh tử được nêu rõ trong Thập nhị nhân duyên, thuộc giáo lý căn bản của Phật giáo.
(Xem: 3401)
tại gia hay xuất gia, chúng ta đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiếng, lễ lạy
(Xem: 6296)
Uẩn, thuật ngữ Pāli là khandha (Skt: skandha) thường được dịch sang tiếng Anh là ‘aggregates’ uẩn.
(Xem: 4962)
Ba-la-mật (pāramī or pāramitā) là các pháp hành để hoàn thiện nhân cách được nói đến trong kinh điểnchú giải, nhất là phần Hạnh Tạng thuộc Tiểu Bộ kinh.
(Xem: 3558)
Nói đạo Phật là đạo “cứu khổ ban vui” nhưng kỳ thực chẳng có ai ‘cứu’ mà cũng không ai ‘ban’ cho cả.
(Xem: 3485)
Mọi hiện tượng và sự vật trên thế gianhoàn vũ này không bao giờ độc lậptồn tại, mà do nhân duyên hòa hợp tạo thành.
(Xem: 5693)
Quan điểm thống nhất trong kinh điển là: sát sanh vi phạm giới luật đầu tiên và chiến tranh là sai lầm ngay cả khi chiến đấu cho mục tiêu phòng thủ hay tấn công.
(Xem: 4259)
Narayan Helen Liebenson, Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche và Blanche Hartman chia xẻ lời khuyên của họ về việc làm sao để ứng phó với các giai đoạn trầm cảm.
(Xem: 6014)
Niết-bàn là phước lạc tối thượng, một trạng thái hạnh phúc vĩnh cửu. Không thể trải nghiệm hạnh phúc của Niết-bàn bằng các giác quan mà bằng cách làm cho chúng tịch lặng.
(Xem: 5257)
Trong những bài pháp ngắn gọn, súc tích nhất để hướng dẫn tu hành khi chưa có giới bổn Patimokkha, Chư Phật đã chỉ ra con đường sống đạo,
(Xem: 3694)
Định hướng cuộc đời để đạt được mong muốn thích đángyếu tố quan trọng giúp cho ta thăng tiến trên đỉnh cao của sự giác ngộgiải thoát.
(Xem: 3774)
Hơn bao giờ hết, những bản dịch kinh điển rõ ràng dễ hiểu, được chú giải thận trọng, được thẩm định kỹ lưỡng trước khi đến tay người học Phật đang là một nhu cầu hết sức cấp thiết và quan trọng.
(Xem: 3712)
Nếu đời là vô thường, sự sống có giới hạn thì phải chăng con người ta khi sống nên có một chút ý nghĩa. Bạn ước mong gì?
(Xem: 3539)
Mong ước của tôi là chúng ta sẽ có dịp đồng hành cùng nhau trên hành trình tâm linh siêu việt của bạn.
(Xem: 5370)
“Tất cả những cảm thọ mà một người nhận chịu dầu đó là lạc thọ, khổ thọ hay vô ký thọ đều là kết quả của Nghiệp quá khứ, người nào quan niệm như vậy là tà kiến”.
(Xem: 4030)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương pháp giảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau.
(Xem: 4382)
Đất Phù Nam (Funan) bao trùm cả một phần Việt Nam, Căm Bốt (Cambodia), Mã Lai (Malaysia) và Thái Lan (Thailand).
(Xem: 5834)
Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo
(Xem: 3139)
Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta.
(Xem: 3078)
Đạo từ tâm sinh. Đi học đạo là học cho ta, để nhận chân được tự tâm, để tạo nên cái phẩm giá của ta
(Xem: 3881)
Người ngu si thiếu trí tuệ biến tự ngã của mình thành kẻ thù, lại tưởng kẻ thù của mình ở bên ngoài nhưng chính mình là kẻ thù của mình đó.
(Xem: 4870)
"Nầy các Tỳ Kheo, ta sẽ giảng dạy, và phân tích cho các ông nghe về con đường cao quý có tám phần. Khi ta nói, các ông hãy chú ý và lắng nghe."
(Xem: 3583)
Nếu tâm hồn biết thầm lặng kết “bạn đường” với thánh hiền tôn giáo, với các nhà hiền triết tâm linh, thì NĂNG LƯỢNG MẦU NHIỆM sẽ hiện hữu...
(Xem: 3069)
Có thể nói ngày nay, chiến tranh, hận thù, thương yêu, ghét bỏ, kỳ thị, náo động trên thế giới… đều do tà kiến mà ra.
(Xem: 4599)
Luật nhân quả có lẽ ai cũng biết và hầu như ít nhiều ai cũng tin. Tuy nhiên, để có được niềm tin không lay chuyển vào quy luật tự nhiêncông bằng ấy thì lại không dễ,
(Xem: 4750)
Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi đang ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức
(Xem: 3465)
Không ai có thể nói trước được chuyện gì sẽ xảy ra ở ngày mai, mặc dù ngày mai mặt trời vẫn lên.
(Xem: 4007)
Nhà Phật thường nhắc đến đạo lý sống Trung Đạo. Cái gọi là Trung Đạo chính là không đi theo hướng cực đoan, quá mức.
(Xem: 4746)
Nhiều trường phái Phật Giáo ngày nay vẫn tụng Kinh Pali, ngôn ngữ của Đức Phật lịch sử.
(Xem: 3589)
Hiện nay, quý vị trẻ thường thích thể hiện mình theo nhiều cách mà mọi người vẫn thường gọi chung chung là muốn khẳng định cái tôi.
(Xem: 3614)
Sắc thanh hương vị xúc pháp cấu thành thế giới của con người chúng taduyên sanh, vô tự tánh, bất khả đắcvô sở hữu
(Xem: 5162)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 4177)
Phật giáo cho rằng, mọi việc thành bại, li hợp ở đời đều không nằm ngoài nguyên tắc "nhân duyên quả báo".
(Xem: 3303)
Buông bỏ phiền não, trước hết là để giải tỏa mọi ưu tư, khiến người ta hạnh phúc.
(Xem: 3008)
Có những nhân quảnhân tạo trong đời này nhưng quả có khi phải qua đời sau hoặc những đời sau mới trỗ.
(Xem: 3046)
Sự quán sát, quán chiếu khởi từ danh tướng - danh là hương, là vị; tướng là những tính chất đặc trưng của chúng
(Xem: 3127)
Phật tử, tôi tâm đắc phần thuyết giảng về ái ngữ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
(Xem: 3122)
Ai cũng mong trong cuộc sống có rất nhiều niềm vui và thật ít nỗi buồn.
(Xem: 3493)
Con người bình thường, khỏe mạnh là một thể thống nhất hài hòa giữa hai yếu tố thân và tâm hay thể xác và tinh thần.
(Xem: 4021)
Người khéo tu lúc nào cũng nhớ quay lại mình, nhận ra và sống được với Tâm chân thật, ngoài ra tất cả đều vô thường hư ảo, không cần chú tâm làm gì.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant