Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Khảo Về Tuyên Ngôn Đản Sanh

27 Tháng Tư 201918:56(Xem: 4608)
Khảo Về Tuyên Ngôn Đản Sanh
KHẢO VỀ TUYÊN NGÔN ĐẢN SANH

Chúc Phú
Khảo Về Tuyên Ngôn Đản Sanh
Giữa thế giới Nhơn, Thiên, không có ai bằng Ta1
(Sadevakasmiṃ lokasmiṃ, natthi me paṭipuggalo)


Đức Phật
không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay. Và do vậy, chữ tuyên ngôn theo định nghĩa của các bộ từ điển ngày nay(1) chưa thể biểu đạt trọn vẹn những điều mà Đức Phật đã trình bày, vì chúng sẽ dừng lại trong giới hạn của ngôn ngữ chuyển tải.

Trong sự biện biệt của ngôn ngữ, tuyên ngôn được hiểu ở đây là sự lập ngôn, là sự quảng bố, khẳng định hoặc được khẳng định một giá trị đích thực nào đó. Tuyên ngôn được xem là đầu tiên trong cuộc đời Đức Phật, là lời nói trong lúc đản sanh của Ngài.

Cơ sở kinh điển

Điều dễ dàng nhận thấy, có rất nhiều kinh điển đề cập đến sự kiện này, trải đều trên cả hai hệ thống kinh điển Nikaya và kinh điển Phật giáo Bắc truyền. Điều đó cho thấy rằng, đây là một vấn đề rất mực quan trọng. Trong khuôn khổ một lược khảo bước đầu, chúng tôi tạm khảo sát ở hệ thống Nikaya.

1- Kinh Tiểu Bộ (Khuddaka Nikàya)

a) Kinh Tập (Sutta Nipata), Chương 3, Đại Phẩm, Kinh Nalaka, câu kệ 683-684(2):

Câu chuyện nói về ẩn sĩ Asita (A Tư Đà) đoán tướng cho Thái tử. Asita thấy chư Thiên vui mừng liền hỏi duyên cớ. Chư thiên đáp:

"Tại xứ Lâm Tì Ni
Trong làng các Thích Ca,

Có sanh vị Bồ tát
Báu tối thắng, vô tỷ.
Ngài sanh, đem an lạc
Hạnh phúc cho loài người,
Do vậy chúng tôi mừng
Tâm vô cùng hoan hỷ.
Ngài, chúng sanh tối thượng
Ngài, loài người tối thắng,
Bậc Ngưu Vương loài người
Thượng Thủ mọi sanh loại.
Ngài sẽ chuyển Pháp luân,
Trong khu rừng ẩn sĩ,
Rống tiếng rống sư tử,
Hùng mạnh, nhiếp loài thú".

Và câu kệ tiếp theo nói về một vị ẩn sĩ bện tóc, tên Kà-ha-xi-ri:

690. Sau khi ẵm bồng lên
Con trai dòng họ Thích,
Bậc cầu đạo tìm hiểu,
Vượt khổ, nhờ tướng, chú,
Tâm tư được hoan hỷ,
Thốt lên lời như sau:
Vị này bậc Vô thượng,
"Tối thượng loài hai chân".

b) Kinh Bổn Sanh (Jataka), Phần Nidana Katha (Duyên khởi luận):

Khi Bồ tát rời khỏi tay mọi người, ngài đứng thẳng trên mặt đất, nhìn về hướng Đông trước mặt ngài có muôn ngàn thế giới trải rộng. Các thần linhloài người dâng cúng ngài hương liệu, tràng hoa… và nói:

- Thưa đại nhân, ở đây không có ai bằng ngài và chắc chắn không có ai hơn ngài cả!

Khi ngài đã nhìn bao quát bốn phương chính đông tây nam bắc và bốn phương giữa cùng trên trời dưới đất, ngài không thấy ai bằng ngài cả, và ngài tuyên bố:

- Đây là phương Bắc.

Rồi ngài đi bảy bước, được vị đại phạm thiên thần theo hầu cầm lọng trắng che đầu ngài, thần Suyama cầm quạt hầu và nhiều vị thần khác mang các biểu tượng hoàng gia. Đến bước thứ bảy, ngài dừng lại, cất tiếng rống như sư tử, một tiếng rống cao quý bắt đầu bằng:

- Ta là đấng tối tôn trên toàn thế giới (3).

2- Trường Bộ Kinh (Digha Nikaya)

14. Kinh Đại Bổn(Mahàpadàna sutta)(4):

Đây là bài kinh Đức Phật thuyết giảng tại nước Sàvatthi (Xá Vệ) rừng Jeta (Kỳ Đà), vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô Độc), trong am thất cây Kareri (Hoa Lâm), Ngài thuyết về tiền thân sáu vị Phật quá khứbản thân của Ngài. Đản sanh như vậy, thành đạo như vậy thuyết giảng như vậy và giải thoát như vậy. Đoạn sau đây miêu tả sự kiện đản sanh của Đức Phật quá khứ Tỳ Bà Thi (Vipassì).

26. Này các Tỷ kheo, pháp nhĩ là như vậy. Khi vị Bồ tát từ bụng mẹ sanh ra, vị Bồ tát không đụng đến đất. Có bốn Thiên tử đỡ lấy Ngài, đặt Ngài trước bà mẹ và thưa: "Hoàng hậu hãy hoan hỷ. Hoàng hậu sanh một bậc vĩ nhân". Pháp nhĩ là như vậy.

***

29. Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Vị Bồ-tát khi sanh ra, Ngài đứng vững, thăng bằng trên hai chân, mặt hướng phía Bắc, bước đi bảy bước, một lọng trắng được che trên. Ngài nhìn khắp cả mọi phương, lớn tiếng như con ngưu vương, thốt ra lời như sau: "Ta là bậc tối thượng ở trên đời! Ta là bậc tối tôn ở trên đời. Ta là bậc cao nhất ở trên đời. Nay là đời sống cuối cùng, không còn phải tái sanh ở đời này nữa". Pháp nhĩ là như vậy.

3- Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikaya)

23. Kinh Hy hữu vị tằng hữu pháp(Acchariya-abbhùtadhamma sutta)(5):

Bạch Thế Tôn, con tận mặt nghe, con tận mặt ghi nhớ từ Thế Tôn: "Khi Bồ tát từ bụng mẹ sanh ra, này Ananda, Bồ tát không đụng đến đất. Có bốn Thiên tử đỡ lấy Ngài, đặt Ngài trước bà mẹ và thưa: "Hoàng hậu hãy hoan hỷ! Hoàng hậu sanh một bậc vĩ nhân". Vì rằng, bạch Thế Tôn, con thọ trì sự việc này, bạch Thế Tôn, là một hy hữu, một vị tằng hữu của Thế Tôn.

***

Bạch Thế Tôn, con tận mặt nghe, con tận mặt ghi nhớ từ Thế Tôn: "Bồ-tát khi sanh ra, này Ananda, Ngài đứng vững, thăng bằng trên hai chân, mặt hướng phía Bắc, bước đi bảy bước, một lọng trắng được che lên. Ngài nhìn khắp cả mọi phương, lên tiếng như con ngưu vương, thốt ra lời như sau: "Ta là bậc tối thượng ở trên đời! Ta là bậc tối tôn ở trên đời! Ta là bậc cao nhất ở trên đời! Nay là đời sống cuối cùng, không còn phải tái sanh ở đời này nữa". Vì rằng, bạch Thế Tôn, con thọ trì sự việc này, bạch Thế Tôn, là một hy hữu, một vị tằng hữu của Thế Tôn.

Vài ý kiến về tư liệu

Ba tháng sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, cuộc kiết tập đầu tiên đã diễn ra nhằm bảo lưu những lời dạy của Đức Phật. Trải qua nhiều kỳ kiết tập, kinh điển vẫn được lưu giữ dưới dạng học thuộc và truyền miệng. Kinh điển được truyền miệng ít nhất là 400 năm sau khi Đức Phật nhập diệtdựa vào trí nhớ của người đọc kinh (Bhanaka). Theo lịch sử Phật giáo, mãi đến gần cuối thế kỷ thứ nhất trước Tây lịch, kinh điển mới được ghi lại bằng chữ viết, trong cuộc kiết tập lần thứ 4.

Nhận định về tuyên ngôn trong Kinh tập (Sutta Nipata):

Đây là tư liệu khá chính xác, gần với lịch sử Đức Phật nhất, được khẳng định và xác quyết bởi Hòa thượng Thích Minh Châu trong lời giới thiệu Kinh Tập (Sutta Nipata):

"Trước hết, Tập Suttanipàta viết bằng một thể văn Pàli xưa nhất và cổ kính nhất, so sánh với các thể văn chúng ta thường được gặp trong các Bộ Dìgha Nikàya (Trường Bộ), Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Samyutta Nikàya (Tương Ưng Bộ), Anguttara Nikàya (Tăng Chi Bộ). Nhiều thể văn gần với văn Vedà (Vệ Đà) được tìm thấy rất nhiều trong tập này, nhưng không tìm thấy trong các tập khác, như các danh từ và động từ số nhiều: sitàse, upatthitàse, caramàse. Các hình thức chủ cách số nhiều và sử dụng cách số ít của một số danh từ như: vinicchayà thế cho vinicchayàni, lakkhanà thế cho lakkhanàni, mantà thế cho mantàya. Ngoài ra, chúng ta thường gặp các nguyên mẫu Vedà như vippahàtane, sampayàtave, unnametave rất ít khi được tìm thấy trong các tập kinh khác. Nhiều khi chúng ta thấy một số danh từ đặc biệt như chữ datthu thế cho disvà, atisìtvà thế cho atikkamivà, maga thế cho migatumo thế cho so v.v... Những danh từ này rất gần với tiếng Vệ đà không tìm thấy ở các bộ kinh khác. Như vậy, chứng tỏ Tập Suttanipàta được viết trong thời kỳ xưa nhất của ngôn ngữ Pàli, chưa được trau chuốt lưu loát, nhiều âm điệu như ngôn ngữ Pàli sau này. Giá trị cổ kính của ngôn ngữ Pàli trong tập này đánh giá tánh chất nguyên thủy của tập Suttanipàta".

Có thể nói, trong các bộ kinh thuộc hệ Nikaya kể trên, tính thuần khiết, gần gũi với thực tế và ít dấu vết huyền thoại được thể hiện trong Kinh Tập (Sutta Nipata) khá rõ. Trong đoạn hội thoại vừa nêu ở trên trong Kinh Tập, các câu kệ 683-684 và câu 690, sự xưng tán được xuất hiện nhiều chỗ, và đây là lời xưng tán của chư Thiên:

"Ngài, chúng sanh tối thượng, Ngài, loài người tối thắng, bậc Ngưu Vương loài người, Thượng Thủ mọi sanh loại."

Và đến khi tiên nhân A Tư Đà xem tướng của Ngài thì đã thốt lên lời xưng tán như sau: Vị này bậc Vô thượng, "Tối thượng loài hai chân". Trong các đoạn còn lại của kinh Nalaka, thuộc Chương Ba, Đại Phẩm, Kinh Tập, không hề có dấu vết Thái tử tự mình phát ngôn hoặc tự mình đứng dậy đi lại. Trong tác phẩm "Đức Phật lịch sử", ông H. W. Schumann cũng căn cứ vào bản kinh này khi đề cập đến chi tiết đản sanh của thái tử(6). Và như vậy, tính tối ưu, tối thắng được bộc lộ qua hình hài và dáng vẻ khi đản sanh của thái tử, được khẳng định do khách thể, do tha nhân. Đây là một lưu ý quan trọng.

Nhận định về tuyên ngôn Nidanakatha:

Kế đến, trong Nidanakatha, sự xưng tán cũng tiếp tục thể hiện: các thần linhloài người dâng cúng ngài hương liệu, tràng hoa…và nói:

- Thưa đại nhân, ở đây không có ai bằng ngài và chắc chắn không có ai hơn ngài cả!

Ở đây, sự xưng tán cũng được thể hiện là do khách thể, là sự khẳng định từ khách thể. Tuy nhiên, bản văn không dừng lại vậy: Rồi ngài đi bảy bước, được vị đại Phạm thiên thần theo hầu cầm lọng trắng che đầu ngài, thần Suyama cầm quạt hầu và nhiều vị thần khác mang các biểu tượng hoàng gia. Đến bước thứ bảy, ngài dừng lại, cất tiếng rống như sư tử, một tiếng rống cao quý bắt đầu bằng:

- Ta là đấng tối tôn trên toàn thế giới.

Điều dễ dàng nhận thấy sự hoành tráng, trang nghiêm khi Ngài cất những bước đi đầu tiên cũng như thể hiện một sự tự khẳng định mạnh mẽ. Trong bản văn này, cả hai dấu hiệu khẳng định và được khẳng định trong tuyên ngôn đã được thể hiện.

Ở đây, xét trên phương diện văn bản học, "Các học giả ở Nam Á lẫn Âu châu đều xem bản văn Duyên Khởi Luận (Nidannakatha), phần giới thiệu tập sớ giải bộ kinh bổn sanh hay chuyện Tiền thân (Jataka), tập 1, của tạng Pali, là tiểu sử mẫu mực. Câu chuyện về nguồn gốc (Nidanakatha) này bắt đầu với sự mô tả các đời trước của Đức Phật, rồi phác họa các sự kiện chính từ thời ngài sinh ra đời: chứng đắc giác ngộ, hoạt động thuyết phápgiáo hóa các đệ tử. Chuyện ấy chấm dứt với việc ngài nhận sự cúng dường tinh xá Jetavana (Kỳ Viên). Mặc dù đây là một trong những tài liệu đầy đủ nhất về cuộc đời Đức Phật, tính cách đáng tin cậy của nó về mặt lịch sử vẫn bị hoài nghi, cần được bàn luận khi xét đến sự thực là nó được sáng tác gần một ngàn năm sau thời Đức Phật và thông thường được gán cho Budhaghosa (Phật Âm) vào thế kỷ thứ V"(7).

Nhận định về tuyên ngôn trong Trường BộTrung Bộ:

Cả Trường Bộ và Trung Bộ đầu như giống nhau về tuyên ngôn và sự xưng tán. Cả hai bản kinh đều có xự xưng tán và khẳng định của chư Thiên"Hoàng hậu sanh một bậc vĩ nhân". Sau đó, cả hai bản kinh đều thống nhất ở quan điểm: "Ngài nhìn khắp cả mọi phương, lớn tiếng như con ngưu vương, thốt ra lời như sau: "Ta là bậc tối thượng ở trên đời! Ta là bậc tối tôn ở trên đời. Ta là bậc cao nhất ở trên đời. Nay là đời sống cuối cùng, không còn phải tái sanh ở đời này nữa". Đây có thể xem là tuyên ngôn thứ nhất trong cuộc đời Đức Phật.

Vài nhận định bước đầuý nghĩa thực tiễn của tuyên ngôn

Đọc lịch sử Ấn Độ sơ kỳ có thể thấy, văn hóa ca ngâm, xưng tụng, tán thán được thể hiện khá đậm nét. Hình thức ca ngâm xưng tán được thể hiện nhiều nhất trong kinh văn Ấn Độ như các bộ Vệ đà, sử thi Mahabharata cũng như nhiều bộ sử khác. Lẽ tất nhiên, sự xưng tán Đức Thế Tôn khi ngài vừa giáng trần cũng là một điều có thể xảy ra trong không gian văn hóa của đất nước này. Điều dễ dàng nhận thấy, với những dấu hiệu đặc thù của một vị vương tử vừa đản sanh, các vị tướng số, tiên nhân thời đó, với khả năng của mình, đều đi đến nhận định chung: Ngài là một đấng tối thắng. Đây là điều mà có thể thấy rõ nhất trong Kinh Tập, trong phần đầu của đoạn trích dẫn Nidanakatha, Trường Bộ và Trung Bộ. Lời xưng tán có nội dung tương tự như thế này, có thể gặp rất nhiều trong kinh điển. Ở đây, nhận định chung vừa nêu ở trên, có thể được xem là tuyên ngôn phi ngôn ngữ, một tuyên ngôn không phải do ngài nói ra mà do những dấu hiệu từ nhân cách sơ sinh buổi đầu của ngài bộc lộ ra.

Kế đến, cả hai truyền thống kinh điển và thậm chí kinh điển của Bà La Môn đều khẳng định rằng hoàn cảnh ra đời của Đức Phật rất đặc thù. Có những dấu hiệu riêng báo hiệu sự xuất hiện của một nhân cách lớn. Đây là điều thường thấy trong lịch sử xuất hiện của các bậc vĩ nhân. Căn cứ vào kết quả những cuộc khai quật của ngành khảo cổ học ở Tilaura Kot và các khu vực phụ cận ở Nepal, đã phát hiện ra một dấu chân in trên đá, được xem là dấu chân của Thái tử khi ngài đản sanh. Tính xác thực của chi tiết này chưa biết đến độ nào, nhưng chúng tôi chứng kiến rõ ràng là, dấu chân này hiện đang lưu giữ cẩn thận trong khu thánh tích Lumbini ở Nepal. Cho nên, tất sẽ không có điều gì lạ lùng khi kinh điển mô tả vừa hạ sinh, thái tử đã đi bảy bước và tuyên thuyết: "Ta là bậc tối thượng ở trên đời! Ta là bậc tối tôn ở trên đời. Ta là bậc cao nhất ở trên đời". Có lẽ đây là tuyên ngôn đầu tiên của Đức Phật được cả hai truyền thống Nam truyền và Bắc truyền chấp nhận, chỉ khác nhau một vài từ do cách chuyển dịch hoặc biểu đạt của văn tự.

Trả lời được câu hỏi vì sao có tuyên ngôn này, là có thể phần nào thẩm thấu được ý nghĩa của biểu tượng đản sanh. Theo quan điểm của Phật Quang Đại Từ Điển, trong bối cảnh có rất nhiều tôn giáoẤn Độ thời ấy, có tới 96 tông phái, tuyên ngôn của Đức Phật là sự khẳng định một chỗ nương tựa vững chắc, một con đường tối thắng, nhằm dẫn dắt chúng sanh thoát khỏi mê lầm, khổ đau. "Vì ở Ấn Độ thời bấy giờ có 96 thứ ngoại đạo, đều tự gọi là Đại thánh, là thầy trời và người, vì muốn khiến tà về chính nên Đức Thế Tôn thị hiện tướng đi bảy bước, giơ tay lên trời, nói: "Duy ngã độc tôn" để biểu thị trong ba cõi chỉ có Phật là tôn quý, sẽ cứu độ tất cả trời, người dứt khổ sống chết, khiến cho chúng sanh đều được an vui"(8). Theo tư duy trung đạo, lý giải về tuyên ngôn như vậy chưa thực sự thỏa đáng và chưa phù hợp trong cả hai truyền thống.

Theo quan điểm của Hajime Nakamura, "có thể phân tích cách suy nghĩ đằng sau câu nói này trong ba giai đoạn:

1. Tất cả chúng sanh đều bình đẳng

2. Người nào nhận thức rằng, tất cả chúng sanh đều bình đẳng thì đáng được tôn kính.

3. Chỉ Đức Phật dạy rằng, tất cả chúng sanh đều bình đẳng, vì vậy Ngài đáng được tôn kính.

Lòng tín ngưỡng của các đời sau nhấn mạnh bản tính siêu nhân của Đức Phật. Do đó nhiều người nhận thấy không có gì mâu thuẫn khi phát biểu chỉ Đức Phật duy nhất giữa tất cả nhân sinh là đáng tôn kính, nhưng sự thay đổi này phải được xem như bước thụt lùi trong ý nghĩa triết lý. Dẫu sao, trong từ ngữ biểu tượng, thì cổ tích này muốn nói rằng "Ta - đó là bản ngã nguyên thủy của mỗi con người - là đáng tôn kính"(9).

Trong một chừng mực nào đó, ở tầng nghĩa thứ nhất, tuyên ngôn khi đản sanh của thái tử, dù do người khác nói hay do thái tử nói đều khẳng định một điều: Đức Phật là bực tối thắng và đáng được tôn kính nhất trong các cõi. Ở đây, dù tự mình xưng tán hay do người khác xưng tán, phải thấy rõ một điều rằng, Đức Phật đã thênh thang bất động trước mọi sự khen chê và đây chính là nhân cách tối thắng của Đức PhậtỞ đời, không nghĩ mình bằng, hơn hay thua người(10).

Ở tầng nghĩa thứ hai, khi chủ thể trong tuyên ngôn được dịch là ta, là duy nhất, thì cần phải hiểu vai trò độc lập, tự chủ của mỗi cá thể được khẳng định và đề cao. Xuyên suốt trong nhiều kinh điển, Đức Phật nói rõ và đề cao vai trò tự chủ của cá nhân. Con người có thể tự quyết định vận mạng của mình. Ngu si hay thấp hèn, thông minh hoặc u tối, trói buộc hay giải thoát… đều do chính mình quyết định. Quan điểm này như một tiếng sét giữa thinh không, xé toang sự nhập nhoạng của màn đêm sức mạnh thần linh, luôn bao trùm và chi phốixã hội cổ đại Ấn ĐộBần tiện không vì sanh, Phạm chí không vì sanh, Do hành, thành bần tiện, Do hành, thành Phạm chí (11).

Khảo sát về tuyên ngôn của Đức Phật để thấy được giá trị ưu thắng của một phương thức sống mới và tâm thế của con người thời ấy khi chứng kiến một sự kiện hy hữu từ xưa đến nay: Ngày Đản sanh của Đức Từ Phụ.

Chúc Phú (Nguyệt San Giác Ngộ- Phật Đản PL.2555,số 182

(1) Viện ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt phổ thông, NXB. TP. HCM, tr 984. Tuyên ngôn: bản tuyên bốtính chất cương lĩnh của một chính đảng, một tổ chức; 2, Đào Duy Anh, Hán Việt từ điển, NXB. Văn hóa Thông tin, 2005, tr.779. Tuyên ngôn: Nói rõ với công chúng. (2) Đại tạng kinh Việt Nam, Kinh Tiểu Bộ, tập 1, Chương Ba, Đại Phẩm, Kinh Nalaka, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB. TP.HCM, 2000, tr.666. (3) Nadana Katha, dẫn lại từ: Hajime Nakamura, Đức Phật Gotama, một tiểu sử căn cứ vào những bản kinh uy tín nhất, Trần Phương Lan dịch, NXB.Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam tại TP.HCM, 2011, tr.92-93. (4) Đại tạng kinh Việt Nam, Trường Bộ, tập 1, HT.Thích Minh Châu, dịch, NXB. TP. HCM, 1991, tr. 451 & 453. (5) Đại tạng kinh Việt Nam, Kinh Trung Bộ, tập 3, HT.Thích Minh Châu, dịch, NXB. TP. HCM, 1992, tr. 324 & 326. (6) H. W. Schumann, Đức Phật lịch sử, Trần Phương Lan dịch, NXB. TP. HCM, 2000, tr.43. (7) Hajime Nakamura, sđd, tr.22. (8) Xem, Phật quang đại từ điển, Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc xuất bản, 2000, tr.1346. (9) Hajime Nakamura, sđd, tr.105-106. (10) Đại tạng kinh Việt Nam, Kinh Tiểu Bộ, tập 1, Chương Bốn, Phẩm tám, Kinh Trước khi bị hủy hoại, kệ 855, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB. TP.HCM, 2000, tr.724. (11) Đại tạng kinh Việt Nam, Kinh Tiểu Bộ, tập 1, Chương Một - Phẩm Rắn, Uragavagga, Kinh Kẻ Bần Tiện, Vasalasuttam, kệ 136, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB. TP. HCM, 2000, tr. 504-505

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 116)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 144)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 214)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 147)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 195)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 176)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 203)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 229)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 313)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 557)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 419)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 431)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 525)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 709)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 765)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 784)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 786)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 691)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 668)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 678)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 789)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 809)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 905)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 671)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 580)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 673)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 796)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 682)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 686)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 784)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 795)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 789)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 835)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 861)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 850)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1038)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 913)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1570)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1020)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1171)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 911)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1172)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1083)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1072)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1227)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1502)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1933)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1045)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1311)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1053)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 912)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1038)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1068)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1493)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1225)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1250)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 986)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1139)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1604)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant