Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Giáo Hoa Kỳ Thời Chiến

17 Tháng Năm 201917:16(Xem: 3222)
Phật Giáo Hoa Kỳ Thời Chiến

Phật Giáo Hoa Kỳ Thời Chiến

 

Nguyên Giác

 

Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20, và chính phủ Mỹ đã nhìn Phật Giáo như một cộng đồng khả nghi và không thân thiện.

Sau đây là bản dịch bài “The Birth of an American Form of Buddhism: The Japanese-American Buddhist Experience in World War II” (Sự Ra Đời của một Phật Giáo Có Sắc Thái Hoa Kỳ: Kinh Nghiệm Phật Tử Mỹ Gốc Nhật Bản trong thời Thế Chiến 2) của nhà bình luận Justin Whitaker trên tạp chí Buddhistdoor Global, ấn bản ngày 9 tháng 5/2019.

… o …

 

Đối với nhiều người, câu chuyện về Phật Giáo tại Hoa Kỳ khởi sự với các nhà thơ Beat trong thập niên 1950s, hay các trí thức hip-pi trong các thập niên 1960s và 1970s. Thực tế, Phật Giáo đã vào vùng đất Hoa Kỳ ít nhất một thế kỷ trước đó với các di dân Châu Á từ khắp bờ Thái Bình Dương. Năm 1893, các tu sĩ đầu tiên của tông phái Jodo Shinshu (Tịnh Độ Chân Tông) vào San Francisco, thiết lập cơ sở rồi sẽ trở thành giáo hội Buddhist Churches of America. Và, theo học giảtác giả Duncan Ryuken Williams, bước đi đó nằm trong các kinh nghiệm của Tịnh Độ Chân Tông và các Phật tử Nhật Bản khác trong Thế Chiến 2 rồi từ đó một Phật Giáo Hoa Kỳ độc đáo được hình thành.

Câu chuyện khởi sự từ sau trận Nhật Bản tấn công Pearl Harbor (Trân Châu Cảng) ngày 7 tháng 12/1941, khi căn cước Mỹ của người Mỹ gốc Nhật, đặc biệt với Phật Tử Mỹ gốc Nhật, bị nêu lên thành nghi vấn

Khoảng hai tháng sau đó, vào ngày 19 tháng 2/1942, trong nỗ lực ráo riết tham chiến, Tổng Thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt ký sắc lệnh Executive Order 9066, cho phép giam khoảng 120,000 người Mỹ gốc Nhật. (Người Dịch: cần ghi chú cho rõ thêm, Wikipedia cho biết từ sắc lệnh này, 10 trại tập trung thiết lập tại 6 tiểu bang Hoa Kỳ, giam khoảng 112,000 người gốc Nhật, cả nam nữ và trẻ em, trong đó 2/3, khoảng 70,000 người là công dân Mỹ; cùng với khoảng 11,000 người gốc Đức và 3,000 người gốc Ý, và một số tỵ nạn gốc Do Thái.)

Trong cuốn sách mới ấn hành, nhan đề “American Sutra: A Story of Faith and Freedom in the Second World War” (NXB Harvard University Press 2019), tác giả Duncan Ryuken Williams -- giáo sư về tôn giáo, văn hóangôn ngữ Đông Á, và là giám đốc trung tâm USC Shinso Ito Center for Japanese Religions and Culture – kể lại câu chuyện người Mỹ gốc Nhật trong Thế Chiến 2, đặc biệt tập trung vào vai trò Phật Giáo ảnh hưởng. Ông khảo sát về ý nghĩa của cương vị vừa là người Mỹ, vừa là Phật Tử đối với người Mỹ gốc Nhật trong thời chiến tranh, và về thái độ kỳ thị và thành kiến bộc phát trở lại

(ND: nhan đề sách trên có thể dịch là “Kinh Hoa Kỳ: Chuyện Về Niềm TinTự Do trong Thế Chiến 2” – tác giả chơi chữ, vì “Sutra” có nghĩa là Kinh Phật tông phái Đại Thừa. Từ đây, sách này sẽ viết tắt là American Sutra.)

 

Như Janis Hirohama đã viết:

Toàn bộ cộng đồng Mỹ gốc Nhật chịu thiệt hại trong thời chiến, nhưng như tác phẩm American Sutra cho thấy, Phật Tử đặc biệt trở thành đối tượng bị nhắm vào. Các giới chức chính phủ và quân sự Hoa Kỳ xem Phật Giáo như là không-phải-Mỹ và xem Phật Tử nhiều phần là không trung thành với Hoa Kỳ. Hầu hết các tu sĩ Phật Giáo đã sớm bị bắttống giam sau trận đánh Trân Châu Cảng, và các hạn chế gay gắt đưa ra đối với việc hành đạo của Phật Giáo tại Hawaii và lục địa Mỹ.” (The North American Post)

 

Quan ngại về việc người Nhật hành đạo Phật Giáo phù hợp với nỗi lo đối với các tôn giáo không-Ky-Tô trong lịch sử Hoa Kỳ, “từ nghi ngờ lan rộng của cái gọi là ‘heathen Chinee’ (có thể dịch theo ý nghĩa: người Tàu tà ma ngoại đạo) [chữ này phổ biến rộng bởi nhà văn Mỹ Bret Harte trong nỗ lực không thành công chế giễu kiểu chống người Trung Hoa thời đó] trong cuối thế kỷ 19, cho tới cảnh giác khẩn về một ‘‘Hindoo peril’ (hiểm họa Ấn Độ Giáo) đầu thế kỷ 20, tới kiểu Islamophobia (kỳ thị ghét bỏ Hồi Giáo) trong thế kỷ hiện nay. Ngay cả trước khi tuyên chiến với Nhật Bản, các Phật Tử cũng đã bị thiếu tin tưởng tương tự.” (Smithsonian.com)

Williams viết về kinh nghiệm của Phật Tử Mỹ gốc Nhật tại Hawaii:

Đợt bắt giam sớm các nhà lãnh đạo Phật Giáo, dù là công dân Mỹ hay không, là một tín hiệu của trận bố ráp rộng lớn hơn nhắm vào các tôn giáo không-Ky-Tô trên các đảo Hawaii. Theo lệnh thiết quân luật, thành kiến sai lệch rằng giáo dân Thiên Chúa Giáo Mỹ gốc Nhật trung thành với Hoa Kỳ hơn ngày càng hiện rõ, và thái độ kỳ thị lịch sử đối với Phật GiáoThần Đạo (Shinto) càng gay gắt hơn.

Do vậy, trong mấy năm đầu cuộc chiến, Phật Tử và người theo Thần Đạo bị hạn chế, không cho hành đạo, và phải thỉnh nguyện với Sở Tình Báo Lục Quân G-2 để xin phép, hầu hết là bị từ chối, khi xin tụ tập ở các chùa và đền của họ. Nhiều ngôi đền Thần Đạo, như đền Izumo Taisha tại Honolulu, đã bị chính quyền tịch thu và tuyên bố là “quà tặng” cho thành phố và quận Honolulu. Trên đảo Kauai, Phòng Thống Đốc Quân Sự điều hợp việc đóng cửa các trường dạy tiếng Nhật trên đảo cùng với việc giải thể các ngôi chùa Phật Giáo. Tận cùng, 13 trong 19 ngôi chùa Phật Giáo trên đảo bị xóa sổ.” (American Sutra: A Story of Faith and Freedom in the Second World War)

 

Đời sống nơi các trại tập trung đầy gian nan. Nhiều người bị giam trong đó được cho vài giờ đồng hồ rời nhà vào trại chỉ với đồ đạc mang theo trên lưng họ. Tuy nhiên, Phật Tử Mỹ gốc Nhật đã kiên trì gìn giữ bản sắc tôn giáo của họ và việc hành trì.

Tù nhân trong trại giam ở Fort Lincoln, North Dakota, đã đón mừng Đại Lễ Hanamatsuri [Đại Lễ Phật Đản] bằng cách rót cà phê pha ngọt lên pho tượng Phật đản sanh gọt cắt từ một củ cà rốt. Các Phật Tử trẻ sanh tại Hoa Kỳ trở thành các lãnh đạo trong các trại tập trung, với các YBA (Hội Phật Tử Trẻ) tổ chức các sinh hoạt xã hộitụ họp làm lễ Phật Giáo  để giúp tăng sinh lực cho các tăng đoàn của họ.” (The North American Post)

Williams viết trong cuốn American Sutra:

Đức Phật dạy rằng căn cước là vô thường, và cũng không tách rời thực thể của các căn cước khác. Từ điểm nhìn này, Hoa Kỳ là một quốc gia luôn luôn chuyển biến năng động – một đất nước đang hình thành, các phần từ kết hợpđặc tính liên tục chuyển hóa bởi các làn sóng di dân từ nhiều nơi trên thế giới, từ lời hứa của nó được hiển lộ không bởi một khẳng định của một căn cước tôn giáochủng tộc ưu thắng nào, nhưng là bởi sự công nhận các thực thể tương thông và tương tác của một phức thể gồm các sắc dân, các nền văn hóa và các tôn giáo mà phức thể đó làm phong phú cho tất cả mọi người.”

 

Và như thế, trong bóng tối chiến tranh và kỳ thị chủng tộc trong một “đất nước Thiên Chúa Giáo,” Williams cho thấy Phật Tử Mỹ gốc Nhật đã thiết lập nên Phật Giáo Hoa Kỳ. Chính là trong một trại tập trung, nơi có tên là trại Topaz War Relocation Center ở Utah, tổ chức Buddhist Missions of North America (Phật Tử Hoằng Pháp Tại Hoa Kỳ) đổi tên thành Buddhist Churches of America (Giáo Hội Phật Giáo Hoa Kỳ). Các chuyển biến khác từ lúc đó, có cả việc ngâm hát các bài kệ (thơ hay ca khúc Phật Giáo), sách về các nghi lễ PG tiếng Anh, và việc thiết lập các lớp Phật Học Chủ Nhật.

Williams viết rằng những thay đổi đó, và các thay đổi khác, trong và sau thời chiến, khai sinh ra một Phật Giáo với một căn cước Hoa Kỳ độc đáo. Ông cho thấy các trở ngại đã làm tăng thêm tín tâm  cho Phật Tử và các Phật Tử Mỹ gốc Nhật đã khẳng định quyền của họ “để tự xác minh như là một người Mỹ và là một Phật Tử, và hình thành một hình thức Mỹ chân thực cho Phật Giáo.”  (North American Post)

Williams kể lại trong sách về cuộc đời nhiều người bị rung chuyển vì biến đổi gay gắt và trong các chuyện đời đó đã tìm thấy một hòa lẫn của trí tuệ Phật Giáokinh nghiệm Hoa Kỳ: “Những chuyện bỏ quên từ lâu về các Phật Tử gốc Nhật nỗ lực xây dựng một Hoa Kỳ tự do – không phải là một quốc gia Thiên Chúa Giáo, nhưng một quốc gia của tự do tôn giáo – không chứa đựng những câu trả lời tận cùng, nhưng các chuyện này dạy chúng ta về sức năng động của chuyển hóa: những gì mang ý nghĩa trở thành Hoa Kỳ -- và Phật Tử -- như một phần của một thế giới chuyển biến năng động và tương liên.”

Sách đã lưu hành từ ngày 19 tháng 2/2019, được nhiều nhà bình luậnquần chúng ca ngợi trong khi Williams đi nhiều nơi cho các buổi ra mắt sách. Ngày lưu hành sách cũng là Day of Remembrance (Ngày Tưởng Nhớ), ngày để tưởng niệm việc tống giam người Mỹ gốc Nhật trong thời Thế Chiến 2. 

(Dịch theo: https://www.buddhistdoor.net/features/the-birth-of-an-american-form-of-buddhism-the-japanese-american-buddhist-experience-in-world-war-ii)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1643)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1624)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1028)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1507)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1476)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1667)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1924)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1518)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1351)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1369)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1543)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1139)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1264)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1271)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1693)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1638)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 2984)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1823)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1362)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1219)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1276)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1403)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1317)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1918)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1680)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1887)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1814)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2385)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1780)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2113)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2188)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2295)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1850)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1971)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2030)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1953)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2589)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1943)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1880)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1940)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1886)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2155)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2296)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1963)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2074)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1877)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1902)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2406)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2317)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 3986)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2471)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3182)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2467)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2043)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1795)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3304)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2342)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3021)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2699)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant