Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tìm Hiểu Về Giòng Tộc Thích Ca

22 Tháng Năm 201907:15(Xem: 6741)
Tìm Hiểu Về Giòng Tộc Thích Ca
TÌM HIỂU VỀ GIÒNG TỘC THÍCH CA 

Thích Trung Định


TÌM HIỂU VỀ GIÒNG TỘC THÍCH CA
           

Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh. Huyết thống gia đình được kế truyền từ ông bà cha mẹ, và huyết thống tâm linh đó là truyền thống của thầy tổ, huyết thống ba đời chư Phật để lại. Chim có tổ, người có tông, là con cháu tằng huyền mấy sợi tao nôi từng khúc rốn ruột. Con cháu có nhiệm vụ kế thừa nòi giống của tổ tiên ông bà cha mẹ để lại. Có người thì kế nghiệp vẻ vang, làm rạng ngời giòng giống, tông phong; nhưng cũng có người thì phá hoại gia nghiệp, không có khả năng kế thừa gia nghiệp của tổ tông ông bà cha mẹ để lại. Đức Phật Thích Ca là người kế thừa gia phong sáng ngời nhất trong lịch sử nhân loại. Ngài không kế thừa gia nghiệp của hoàng tộc Thích Ca, làm vua để trị vì một đất nước nhỏ bé, mà Ngài đã kế thừa gia nghiệp vẻ vang của mười phương chư Phật, tiếp nối truyền thống tâm linh rạng ngời làm chỗ quay về nương tựa cho chúng sinh vạn loài. Những nếp sống thuần hóanhân ái, những kinh nghiệm của đời sống tâm linh đã được truyền thừa từ chính Đức Phật cho các hàng đệ tử thân cận của Ngài và được lưu truyền cho đến ngày nay, ở khắp mọi nơi, là một minh chứng rõ nét về sự ảnh hưởng của Đức Phật trong thế giới này.

            Lịch sử niên đại

Đức Phật Thích Ca là một con người lịch sử, hầu hết các học giả đều ghi nhận rằng Ngài đản sinh vào năm 563 trước Công nguyên và nhập Niết-bàn vào năm 483 BC. Để có được cứ liệu lịch sử chính xác này, chúng ta phải dựa vào ba nguồn dữ liệu chính đó là: Niên Đại Dài (Long Chronology), Niên Đại Ngắn (short chronology), và Chúng Thánh Điểm Ký (The Dotted Record). 

Niên đại dài chủ yếu dựa vào các truyền thuyết Phật giáo Nam truyền được ghi lại trong Dipavamsa và Mahavamsa. Trong sử liệu của Dipavamsa ghi rằng: “218 năm sau khi đức Phật nhập niết bàn, vua A Dục đăng quang Hoàng đế.”[1] Mahavamsa cũng ghi tương tự “Sau khi đức Phật Niết-bàn và trước khi lễ đăng quang của (Asoka) đã có 218 năm, điều này nên được biết).[2] Do đó năm chính xác Đức Phật nhập Niết-bàn được xác định như sau: Asoka lên ngai vàng vào năm 268 TCN; Lễ đăng quang diễn ra sau đó ba năm (268-3) = 265 TCN; Sự cai trị của Asoka đã diễn ra (268 - 3) = 218 năm. Như vậy năm Đức Phật nhập diệt diễn ra (218 + 265) = C. 483 TCN.

Niên đại ngắn dựa trên các nhân chứng từ các nguồn tư liệu của Ấn Độ và các bản dịch Trung QuốcTây Tạng. Theo cứ liệu lịch sử này, Đức Phật nhập Đại Bát niết bàn diễn ra vào năm 368 hoặc 378 TCN.  

Theo tài liệu Chúng thánh điển ký, tài liệu này được chứa trong Li Tai San Pao Chi do Fei Chang Fang viết và đã được sử dụng làm trụ cột chính để hỗ trợ cho nguồn Niên đại dài. Theo văn bản này, sau khi Đức Phật nhập diệt, Tôn giả Upāli đã ghi chép vào trong Luật tạng nhân ngày lễ Tự tứ (Pavāranā) 15 tháng 7 hằng năm, tức ngày trăng tròn. Ngài đã đánh một dấu chấm (trên một bản ghi) và đặt nó gần với văn bản Luật tạng (Vinaya). Sau đó, truyền thống điểm ký này được lặp lại hằng năm. Từ Tôn giả Upāli truyền lại cho đệ tử là ngài Dāsaka, ngài Dāsaka truyền xuống ngài Sonaka…rồi đến ngài Siggava…và đến ngài Moggalīputta Tisa (Mục Kiền Liên Tử Đế Tu)…và đến ngài Candavajjī. Cho đến ngày 15 tháng 7 năm thứ 7 thời vua Hán Minh Đế ‘Yung-Ming’ (489 AD), số điểm ký (dấu chấm trong Luật tạng) đã tính được 975 điểm. Một chấm được tính là một năm. Như vậy, trên cơ sở này, chúng ta có được: Đức Phật nhập Niết bàn = 489 AD - 975 = 486 TCN.  Tuy nhiên, W. Pachow cho biết có ba dấu chấm nữa có thể được thêm vào những sau năm 489 sau Công nguyên, thực tế là 972 chấm chứ không phải 975. Do đó, ngày thực tế của Đức Phật nhập Niết-bàn là: 489 AD - 972 = 483 TCN. Ngài thọ 80 tuổi tức năm đản sinh 483 TCN +80 = 563 TCN. Như vậy, cứ liệu của Niên đại dài và Chúng thánh điểm ký hoàn toàn giống nhau.

 Đức Phật sinh ra tại vườn Lâm Tỳ Ni, thành Ca Tỳ La Vệ thuộc xứ Nepal, Ấn Độ. Ngài là con của vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma Da, thuộc dòng tộc Thích Ca với tên họ đầy đủ là Kiều Tất La Thích Ca Tất Đạt Đa. Dòng họ Thích Ca được mô tả trong kinh A-ma-trú là một dòng họ cao quý và tinh khiết. Dòng tộc Thích Ca là một gia tộc chính trị, đứng đầu một cộng đồng gia tộc cao quý. Đời sống kinh tế chủ yếu là nông nghiệp nông thôn tự nhiên. Đức Phật sinh ra trong một gia đình hoàng gia cao quý với nhiều tiện nghi vật chất ưu đãi. Tăng-chi-bộ -kinh mô tả chi tiết về đời sống của Đức Phật là như một hoàng tử đã được nuôi dưỡng và cưng chiều một cách tinh tế không thể đo lường. Ngài thông thạo về cả văn lẫn võ và tinh thông các kinh điển Vệ-đà. Thế nhưng cuộc sống hoàng tộc không làm Ngài say đắm, mà ngày đêm Ngài vẫn ưu tư khắc khoải về nỗi thống khổ của sanh, già, bệnh và chết. Thế rồi Ngài quyết định từ bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con thơ, xuất gia tìm đạo và chứng thành đạo quả Vô thượng Bồ-đề, trở thành vị Phật tiếp nối truyền thống chư Phật ba đời để xiển dương chánh pháp, cứu độ chúng sanh.

Giòng tộc Thích Ca

Trong kinh tạng Pāli và Phạn bản đều ghi rằng Ngài có họ Cù đàm (Cồ đàm). Danh từ Cù Đàm là tên thường gọi để chỉ cho đức Phật, tức lấy họ Cù đàm để gọi theo nghĩa phổ thông. Danh từ này cũng thường xuất hiện trong rất nhiều kinh ghi lại cuộc đối thoại giữa các đạo sĩ Bà la môn với Đức Phật. Trong kinh Trường-bộ, bản kinh số 2, kinh Sa-môn-quả, Đức Phật có nói rằng tổ tiên của Ngài có họ là Cù Đàm, còn trong Luật tạng Nam truyền Đức Phật gọi phụ vương của mình là Cù Đàm. Kinh Tương-ưng IV còn giải thích thêm rằng những người thuộc dòng họ Thích Ca cư trú tại Ca-tỳ-la-vệ có họ là Cù Đàm, trong khi đó nếu họ cư trú tại những vùng khác như Cātumā, Khomadussa, Sāmagāma…thì lại mang họ khác.

Thích Ca Mâu Ni cũng là một danh từ phổ biến khác dùng để chỉ cho Đức Phật. Chữ Thích Ca nghĩa là ‘năng nhơn’, Mâu Ni có nghĩa là ‘tĩnh mặc’. Năng là năng lực, Nhơn là từ bi, nghĩa là nhân từ. ... Tịch Mặc được hiểu là thanh tịnh. Mâu Ni cũng có nghĩa là bậc thánh nhân, nhà hiền triết, vì thế Thích Ca Mâu Ni có nghĩa là bậc thánh của dòng học Thích Ca.

Nguồn gốc nguyên thủy của vương tộc Shakya bắt nguồn từ Kosala, một vương tộc thuộc dòng Aryan cai trị vùng đất ở chân dãy Terai. Câu chuyện bắt đầu từ vua Okkaka. Vua Okkaka thuộc dòng dõi mặt trời, tông tộc Ikshanku. Sau khi người vợ đầu tiên chết, nhà vua cưới một người vợ khác.Theo lệnh của bà mẹ kế, các vương tử: Ulkamukha, Karandu, Hastinika, Sinisura, và các công chúaPriya, Supriya, Ananda, Vijita, Vijitasena được lệnh nhà vua phải rời khỏi vương quốc Kosala vào sống nơi rừng sâu. Những vương tử và công chúa cành vàng lá ngọc rời khỏi kinh đô Saketa tiến về phía dãy Himalaya. Trải qua bao vất vả, cực nhọc họ đến một vùng đất là nơi ẩn tu của vị ẩn sĩ Kapilamuni. Được ẩn sĩ cưu mangcho phép, họ đã kiến lập nên một vương quốc và đặt tên là Kapilavastu (hoặc Kapilanagara) để vinh danh ẩn sĩ Kapilamuni.

Thời gian cứ trôi, những hoàng tử và công chúa của xứ Kosala đi đày đã đến tuổi lập gia đình. Bởi tập tục kết hôn với người cùng dòng máu là bình thường thời bấy giờ, tám anh em kết  hôn với nhau và tạo ra tông tộc Shakya (tập tục này ngày nay một số gia đình họ Shakya vẫn còn giữ, tức là chỉ kết hôn với người mang họ Shakya). Vị công chúa lớn tuổi nhất là Priya được bổ nhiệm làm mẫu hậu, còn hoàng tử Ulkamukha được bổ nhiệmquốc vương đầu tiên của vương quốc non trẻ Kapilavastu. Một ngày nọ, Okkaka -nhà vua xứ Kosala, nghe kể về cuộc phiêu lưu của những đứa con của mình. Ông quá kích động và kêu lên rằng: “Sakya-Vata-bho-Kumara” (nghĩa là: những đứa trẻ phiêu lưu đã có kết thúc tốt đẹp). Từ câu nói này, về sau, người ta thường dùng tên Sakya (Shakya) để chỉ vương quốc hoặc dòng tộc này, còn Kapilavastu là kinh đô của vương quốc đó.

Trong kinh A-ma-trú (Ambattha) thuộc Trường-bộ-kinh, Đức Phật kể lại nguồn gốc của dòng họ Thích Ca cho thanh niên Ambattha như sau: “Này Ambattha, nếu theo phụ mẫu hệ của ngươi về quá khứ, thời dòng họ Thích ca là thầy của ngươi. Và ngươi là con của một nữ tỳ của dòng họ Thích ca. Này thanh niên Ambattha, tổ tiên của Thích ca là vua Okkàka. Thuở xưa, này Ambattha, vua Okkàka muốn trao vương vị cho hoàng tử con bà hoàng hậu chính mà vua thương yêu, bèn đuổi ra khỏi nước những người con đầu của mình là Okkàmukha, Karandu, Hatthiniya, Sinipura. Bị tẩn xuất khỏi nước, những hoàng tử này đến sống tại một khu rừng lớn bên một hồ nước, trên sườn núi Hy-mã-lạp sơn. Vì sợ huyết thống của mình bị lẫn lộn với huyết thống khác, các vị hoàng tử này ăn nằm với những người chị của mình. Này Ambattha, một hôm vua Okkàka nói với vị đại thần tùy tùng: ‘Này các khanh, các hoàng tử hiện nay ở đâu?’ – ‘Bạch Đại vương, có một khu rừng lớn, bên một hồ nước trên sườn núi Hy-mã-lạp-sơn. Nay các hoàng tử ở tại chỗ ấy. Các hoàng tử, vì sợ huyết thống của mình lẫn lộn huyết thống khác nên ăn nằm với những người chị của mình’. Này Ambattha, vua Okkàka liền cảm hứng thốt lời tụng hân hoan: ‘Các hoàng tử thật là những Sakya (cứng như lõi cây sồi), các hoàng tử thật là những Sakya xuất chúng’. Này Ambattha, từ đó trở đi, các hoàng tử được gọi là Sakya và vua Okkàka là vua tổ của dòng họ Thích-ca.”[3]

Như vậy theo phả hệ gần nhất của dòng họ Thích Ca được liệt kê theo sau: Vua Ikshvaku (Okkaka) con của vua Vaivasvata Manu. Ông có 8 em trai tên là: Nabhaga, Narishyanta, Karusha, Prishadhra, Dhrishta, Sharyati, Pramshu, Nabhanedishta và một em gái tên là Ila.

Vua Okkaka lấy Bhatta làm hoàng hậu và sanh ra 4 người con trai tên là: Okkamukha, Karakanda, Hatthinika, Sinipura, và 5 người con gái là Piya, Suppiya, Ananda, Vijita và Vijitasena. Hết đời vua Okkaka truyền lại cho Okkamukha lên làm vua đời kế tiếp. Tiếp tục vua Okkamukha truyền ngôi cho con trai là Sivisamjaya. Vua Sivisamjaya truyền ngôi cho con trai là Sihassara. Vua Sihassara truyền ngôi cho con trai là Jayasena. Vua Jayasena có một  người  con trai  tên là Sihahanu và một người con gái tên là Yashodharā. Vua Sihahanu lấy Kaccānā làm Hoàng hậu và sanh ra năm người con trai tên là: Sudhodana, Dhotodana, Sakkodana, Sukkodana, Amitodana và hai cô con gái tên là Amitā, Pamitā. Vua Sudhodana lấy hai chị em Māyā và Pajāpatī làm vợ. Hoàng hậu Māyā sanh Thái tử Siddhattha, và Pajāpatī sanh Nanda. Thái tử Siddhattha cưới Công chúa Gia Du Đà La và sanh ra Rahula.

Các bộ sử Nam truyền và Tứ phần luật đều ghi lại rằng thân phụ của Tịnh Phạn Vương có tên là Sīhahanu hay Simhahanu (Sư Tử Giáp), trong khi đó Ngũ phần luật thì tên của vị vua đó là Ni Hưu La. Theo Ngũ phần luật vua Ni Hưu La có bốn người con là Tịnh Phạn (Suddhodana), Bạch Phạn (Sukkodana), Hộc Phạn (Dhotodana) và Cam Lồ Phạn (Amitodana). Tịnh Phạn (Suddhodana), có hai người con là Tất Đạt ĐaNan Đà; Bạch Phạn (Sukkodana) có hai con là A nan đà và Điều Đạt, Hộc Phạn (Dhotodana) có hai con là Ma Ha Nam (sau này nối vua dòng họ Thích ca khi Tịnh Phạn vương qua đời), và A Na Luật; Cam Lồ Phạn (Amitodana) có hai con là Bà Bà và Bạt Đề. Các bộ sử Nam truyền và Tứ phần luật chỉ nói đến con của vua Tịnh Phạn chứ không đề cập đến các vị khác.[4]

Kinh đô của dòng họ Thích Cathành Ca Tỳ La Vệ (P:Kapilavatthu; S: Kapilavastu), một khu vực nằm cạnh sông Bhāgīrathī. Tên của thành phố này ít nhiều có liên quan đến nhà hiền triết tên là Kapila. Kapila chứng được một loại trí tên là Địa Võng (Bhumijāla). Với trí này Kapila có thể biết được địa thế của những khu vực khác nhau và ông khuyên những người con của vua Okkàka nên ở lại tại nơi ông đang tu trì vì trong tương lai vùng đất này sẽ trở thành một nơi trù phú nổi tiếng. Các hoàng tử đã nghe theo lời của Kapila và họ đặt tên nơi đấy là Ca Tỳ La. Đôi khi Ca Tỳ La Vệ cũng được gọi bằng tên khác như: Kapilapura, Kapilāvayapura (Bộ Đại sự, Kinh Thần thông du hí) hay Kapilasyavastu (Phật sở hành tán).[5]

Qua những cứ liệu khảo cổ thu thập được về địa danh này của giáo sư Oldenberg, Kapilavastu - vương quốc của những người Shakya, là một tiểu quốc cộng hòa thuộc phạm vi cai quản của một nhà vua lớn hơn ở Ấn Độ, cụ thể là Kosala. Như ta đã thấy từ quá trình hình thành của nó, Kapilavastu đã bầu chọn một người cai trị từ trong các thành viên hoàng gia và sự thần phục Kosala là tất nhiên vì đó là vương quốc tổ tiên của họ.

Danh từ Thích Ca (Sakya) cũng có nghĩa là một người có oai đứcnăng lực và đó cũng là tên một bộ tộc từng sống dưới chân núi Hy Mã Lạp Sơn (thuộc thung lũng Terai của nước Nepal ngày nay). Những người Thích Ca luôn tự hào vì họ thuộc dòng dõi mặt trời. Một số bản kinh thuộc văn hệ Pāli như kinh Đế Thích sở vấn, Tương-ưng I, Tăng-chi II có nói đến một danh hiệu khác của Đức Phật là Adiccabandhu (Nhật Chủng), tức người con của dòng họ mặt trời. Kinh Tập (Suttanipāta) nói rằng đây cũng là tên của bộ tộc (Gotta) đã sản sinh ra Đức Phật. Nguồn tổ tiên mặt trời của dòng họ Thích Ca và sự ra đời của vua Cam Giá được ghi lại trong kinh Nhật bổn hạnh tập theo các tư liệu Phật giáo còn lại thì những người Thích Ca có phong tục hôn phối trong dòng tộc. Truyền thống hôn phối như thế thường xuất hiện trong các xã hội thời xa xưa, nhất là trong những nền văn hóa thời sơ khai. Ở nước ta vào thời Trần cũng theo phong tục này nhằm mục đích bảo vệ vương quyền trong dòng tộc. Phong tục này rất phổ biến trong cộng đồng người Dravidian ở Nam Ấn và những người Rajput ở Bắc Ấn với mục đích là để bảo vệ huyết thống của những người trong cùng dòng tộc. Các bộ Đảo-sử và Đại-sử Tích Lan có ghi lại rằng Bộ tộc Thích Ca và bộ tộc Koliya có quan hệ hôn phối gắn bó nhau.

Thuật ngữ Sakya cũng được phiên dịch nhiều nghĩa khác nhau. Theo Tứ phần luật nó có nghĩa là Mahasammata hay Đại Nhơn. Theo nghĩa đenMahasammata có nghĩa là người được hội chúng bầu chọn hay đề cử. Điều này cho thấy rằng việc bầu chọn thời xưa được tiến hành theo thể chế dân chủ. Do đó, nước Ca Tỳ La là một quốc gia theo thể chế cộng hòa đầu tiên trên thế giới. Tức nhà nước xây dựng một thể chế dân chủ, người lãnh đạo phải được bầu chọn một cách kỷ càng. Người được bầu lên đó phải hội đủ những phẩm chất cần thiết và sau này vị ấy sẽ trao quyền cai trị cho một người nào đó xứng đáng. Lịch sử cũng ghi lại những cuộc tỷ thí văn võ giữa các hoàng tử với nhau để chọn ra người xứng đáng làm một việc gì đó. Thông thường thì cuộc tỷ thí cuối cùng là giữa Tất Đạt ĐaĐề Bà Đạt Đa và phần thắng thường nghiêng về Tất Đạt Đa.

Vương tộc Koliya - Bên ngoại thái tử Siddhartha

Nguồn gốc của vương tộc Koliya bắt đầu gần như cùng thời điểm và con người với vương tộc Shakya. Chúng ta đã biết Priya là mẫu hậu đầu tiên của Kapilavastu. Bà đã kết hôn với Rama - vua của vương quốc Banaras (Ba La Nại), sinh hạ 32 người con và tạo lập nên thành phố Devadaha ở phía Đông biên giới Kapilavastu. Từ đấy đã hình thành nên họ tộc Koliya. Vương quốc này được biết đến với nhiều tên gọi như: Devadaha, Vyaghrapura, Kolinagara, Ramagrama. Mỗi cái tên gắn liền với một sự tích tạo lập nên vương quốc. Devadaha (Thành phố thần thánh) là để tôn  vinh các vị thần nơi họ tạo lập nên vương quốc mới.

Do có cùng nguồn gốc nên vương tộc Shakya ở Kapilavastu và vương tộc Koliya ở Devadaha đã có những mối quan hệ hôn nhân mật thiết. Nhiều đời giữa hai vương tộc đã kết thành thông gia. Đến thời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, phụ vương Ngài là Tịnh Phạn đã cưới cả hai chị em công chúa Mayadevi (Ma da) và Prajapati (Ma Ha Ba Xà Ba Đề), còn chính Thái tử Tất Đạt Đa cũng đã kết hôn với công chúa Yasodhara (Da Du Đà La) xinh đẹp của vương tộc Koliya. Việc cai trị ở Devadaha cũng theo mô hình của Kapilavastu, nhưng Koliya có đến hai trung tâm quyền lực - một ở Devadaha, một ở Ramagama. Chúng ta đều biết rằng sau khi Đức Phập nhập Niết-bàn tại Kusinaga, xá lợi của Ngài được chia làm tám phần cho tám vị quốc vương. Vương quốc Ramagrama cũng được một phần trong số ấy và đem về lập tháp thờ tại Devadaha.

Năm 1898, Tiến sĩ Hoey căn cứ theo kinh sách đã tìm lại được kinh thành Devadaha. Nó nằm ở chân núi Terai, phía Tây Nepal. Năm 1964, Tiến sĩ S.B Deo xác định được vị trí tháp Ramagrama bên bờ sông Jharai. Nơi đó có một gò đất cao chừng 9m và đường kính chân gò là 21m, với chân móng bằng gạch nung. Các học giả và nhà khảo cổ đã đo đạc và so sánh những khoảng cách đã được nêu trong các tài liệu của các ngài Pháp HiểnHuyền Trangcông nhận tính chính xác của các nghiên  cứu của Tiến sĩ S.B Deo.[6]

Theo sự biến dịch của vô thường, dòng họ Thích Ca ngày nay hầu như không còn truyền thừa nữa. Mặc dầu thời đại vàng son đã chôn vùi trong quá khứ, nhưng sự xuất hiện của họ trong lịch sử là một điển tích huy hoàng đánh dấu sự xuất hiện của một con người vĩ đại, bậc thầy của nhân thiên, đó là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mang dòng họ Cù Đàm Thích Ca. Có rất nhiều người trong dòng họ Thích Ca xuất gia theo gương Phật như Ananda, Nanda, Anurudha, Rāhula, Mahapajāpatī, Tissā, Vipassī, Yasodharā, Mitta, Sundharī Nanda…họ đã trở thành những vị thánh đắc được đạo quả vô sanh giải thoát. Trong đó gương hạnh của Tôn giả A nan - vị thị giả hầu cận Đức Phật trong suốt 25 năm luôn được đức Phật khen ngợi là người có phẩm hạnh tuyệt vời, rồi sau khi Đức Phật diệt độ, tại đại hội kết tập kinh điển lần thứ nhất tại hang động Thất Diệp, Ngài là người trùng tuyên lại kinh tạng không sót một lời để lưu truyền cho hậu thế. Thánh giả Kiều Đàm Di, vị tổ của Ni giới, người có công khai sáng Ni đoàn mở đường cho phái nữ xuất gia tu họcđạt được quả vị giải thoát trong giáo pháp của Đức Phật. Chúng ta, những người con Phật thời hậu duệ, luôn khắc cốt ghi tâm những người của dòng họ Thích Ca. Bất cứ ai đã là con Phật, thì nguyện hãy nỗ lực tiếp bước con đường mà Ngài đã vạch lối, cùng trau dồi phẩm hạnh và trí tuệ, để không hổ thẹn với danh nghĩa Sa môn Thích tử.

Ghi chú

[1] K.T.S Sarao, Origin and Nature of Ancient Indian Buddhism, EBL, Delhi, 1989, p. 22.

[2] Ibid,

[3] Kinh A-ma-trú, Trường-bộ-kinh.

[4] Nẻo về tâm linh, Kỷ yếu hành hương Phật tích Ấn Độ, 2006, Dòng Họ Thích Ca (Đồng Thành), tr. 27.

[5] Ibid,

[6] Xem, Ký sự - Phần III: Những nẻo đường của Đức Phật Thích Ca, phóng viên Hương Giang (VTV), http://www.buddhismtoday.com/viet/phattich/nhungneoduongcuaducPhat3.htm

Thích Trung Định
Văn hóa Phật giáo, số 321
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 73)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 148)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 168)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 224)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 151)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 204)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 191)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 222)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 237)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 320)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 559)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 422)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 435)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 530)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 719)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 768)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 806)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 811)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 696)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 688)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 690)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 794)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 817)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 914)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 687)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 587)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 687)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 805)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 686)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 693)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 791)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 812)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 795)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 838)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 865)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 855)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1044)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 916)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1578)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1024)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1172)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 922)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1175)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1093)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1101)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1240)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1510)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1941)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1055)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1319)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1066)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 922)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1044)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1080)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1497)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1252)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1261)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 993)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1155)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant