Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Ai Làm Mình Khổ?

20 Tháng Năm 201909:35(Xem: 3952)
Ai Làm Mình Khổ?

AI LÀM MÌNH KHỔ?
Thích Đạt Ma Phổ Giác

Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ; bị đoạ làm súc sanh, quỷ đói, chưa chắc là khổ, mà cái khổ lớn nhất của con ngườivô minh, mê muội, không biết lối đi mới thật là khổ.

    Những cái khổ thiếu ăn, thiếu mặc, đói rét, hay con trâu, con bò kéo cày, hoặc làm quỷ đói, cho đến khi trả hết nghiệp khổ thì cũng có ngày thoát ra khỏi; còn chúng ta sống trong vô minh mê lầm mà không biết lối đi, không biết được sự thật của cuộc đời mới là khổ.

    Đã làm người, ai không một lần vấp ngã, nhưng khi vấp ngã chúng ta có chịu đứng lên hay không? Chúng ta vấp ngã ngay nơi đất, thì cũng từ nơi đất mà đứng lên. Đạo Phật không bắt buộc một ai phải đi theo mà chỉ hướng dẫn cho tất cả mọi người thấy biết đúng sự thật, tốt biết tốt, xấu biết xấu, còn làm được hay không là do sự quyết tâm của mỗi người. Chúng ta có quyền chọn lựa vì chính mình là thượng đế tối cao của chính mình, không ai có quyền chen vô hay ban phước, giáng họa cho ta. Đến chỗ này, chúng ta phải thầm nhận, tự nhận, không nên chần chừ nữa, mà hãy một phen chuyển mình để nhận ra tính biết sáng suốt ngay nơi thân này.

    Phật dạy, ai cũng có chân tâm sáng suốt, tại sao chúng ta không chịu thừa nhận để rồi mình cứ mải mê chạy theo vui chơi, hưởng thụ dục tính, làm chính mình khổ luỵ ngày càng thêm chồng chất?

    Vua Trần Thái Tông là một vị vua cư sĩ. Khi tu hành ngộ đạo, Ngài cảm thông cho kiếp người sao quá ngu si, khờ dại, nên sáng tác ra bài thơ như sau:

Lang thang làm kiếp phong trần mãi mãi, Ngày cách quê hương muôn dặm đường.

    Phật dạy, “ai cũng có tâm Phật, tâm sáng suốt, chỉ vì ta không chịu thừa nhận, nên phải chịu trôi lăn mãi trong lục đạo, luân hồi”. Ta là nam nhi đại trượng phu, Phật đã thoát ly sanh tử, còn ta dại gì mà đi lang thang mãi cho đến khi gối mỏi, chân dùn mà ngồi đó than thân, trách phận, chờ đến khi khát nước mới đào giếng thì làm sao hết khát được đây?

     Vậy thành Phật là thành cái gì? Chúng ta phải nhận rõ chỗ này, thành Phật là thành cái tâm sáng suốt, thanh tịnh, chớ không phải thành cái thân năm,bảy chục ký lô này. Cái tâm sáng suốt, thanh tịnh ấy ngay nơi mắt thì thấy biết rõ ràng, tai-mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế.

    Có một ông vua hỏi Thiền sư, “thành Phật là thành cái gì?”

    Thiền sư đáp, “dám bảo bệ hạ đã quên”.

    Chỉ một câu nói “dám bảo bệ hạ đã quên” đã làm nhà vua sáng tỏ, hài lòng. Do không nhận cái mình thực có, nên chúng ta đành cam chịu sống trong đau khổ, lầm mê.

     Đạo Phật ra đời đã mở ra trang sử mới, một trang sử huy hoàng nhất trong lịch sử nhân loại, chưa từng có từ trước tới nay. Đạo phật đã chỉ cho chúng ta biết cách làm chủ bản thân, nhờ biết quay lại chính mình; mình làm lành được hưởng phước, mình làm ác chịu khổ đau, không ai có quyền ban phước giáng họa cho ta; nên đạo Phật là đạo của tình thương, là đạo của tỉnh thức, là đạo của sự giác ngộ, giải thoát, là đạo của con người, vì con người, vì lợi ích của nhau, bằng trái tim hiểu biết trên tình thần đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau.

     Phật là danh từ chung, không dành cho riêng ai như các quan niệm khác của thời xa xưa. Ai cũng có thể thành Phật được, nếu quyết tâm chịu bắt chước buông xảtu tập như Ngài, thì chúng ta cũng sẽ thành Phật trong tương lai.

    Sở dĩ, chúng ta không thành Phật và phải chịu khổ đau trong luân hồi sinh tử là vì mình không thừa nhận nhận mình có tính biết sáng suốt. Chỉ vì mình chẳng chịu thừa nhận chính mình có hạt châu vô giá ngay nơi thân này, mắt thấy sắc nhưng rõ ràng thường biết, tai-mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế, tại ta không chịu lấy ra xài mà thôi.

    Điều đầu tiên đức Phật đã chỉ là biết khổ do chấp trước sai lầm, chấp là gốc của sự khổ đau; biết được khổ từ nguyên nhân chấp trước, bám víu, tham ái, nên chúng ta phải tìm cách chuyển hoá, buông xả cái khổ lớn nhất của con ngườisợ chết, vì tham sống nên sợ chết.

    Chúng ta luôn tham muốn thân này được sống đời mãi mãi, nên mọi người coi cái chết là việc cấm kỵ nhất. Do đó, khi gặp người thân thăm hỏi nhau, chúc mừng nhau, chúng ta đều luôn cầu chúc cho nhau mạnh khoẻ, sống lâu, mà ta không biết phải gieo nhân nào để được sống thọ. Nhân sống thọ là không sát sinh, hại vật, bởi mạng sống từ con người cho đến muôn loài vật, ai cũng đều ham sống sợ chết, ta muốn sống thọ mà cứ giết hại hoài, thật “thất nhơn ác đức” làm sao! Vì sợ chết nên ai cũng tìm cách tránh né danh từ chết, và hình như từ chết đã ám ảnh con người thành nỗi sợ hãi lớn, thậm chí đến khi tuổi già, bệnh gần chết, khi mua hòm về vẫn nói là hòm thọ “tức là hòm sống.”

     Cho nên, đã làm người trong trời đất thì trước sau gì ai cũng phải chết, chỉ đến sớm hay muộn mà thôi, dù là vua chúa hay người dân dã, bình thường. Do đó, với sanh thì mau lớn trong từng giây, phút như một em bé khi mở mắt chào đời, chỉ bằng cùm tay, ấy thế mà sẽ lớn lên với nhiều thay đổi; sanh cũng có nghĩa là sự sống đang tăng trưởng, thay đổi và phát triển.

    Còn đối với già thì sao? Da nhăn, tóc bạc, mắt mờ, tai điếc, ăn uống, đi đứng khó khăn theo từng năm tháng, ai rồi cũng sẽ phải già.

    Với bệnh thì thân thể tiều tụy, đau nhức hoành hành, làm ta đau khổ; sức khỏe dần hồi hao mòn, suy kém, làm cho ta tốn tiền, hao của.

    Khi chết thì con người không còn cựa quậy, hoạt động như bình thường, mà nhắm mắt xuôi tay, co cứng, rồi rã rời, thối rửa.

    Vì lẽ ấy, đức Phật mới nói với vua Ba Tư Nặc rằng, có bốn sự việc mà người thế gian không thoát khỏi được, đó là sinh-già-bệnh-chết.

    Chứng minh cho lời Phật dạychân lý, đúng với lẽ thật thế gianvô thường, chúng ta thường đau khổ khi có người thân qua đời, nhất là người đó đã từng nuôi nấng, thương yêu, chăm sóc, lo lắng cho ta được đầy đủ về mọi phương diện. Ngày nay, nếu chúng ta chịu khó theo dõi tin tức trên các phương tiện báo chí, chúng ta sẽ thấy, không biết bao nhiêu là cảnh sinh ly tử biệt luôn xảy ra hằng ngày, chết chóc do chiến tranh, loạn lạc, thiên tai, lũ lụt, hạn hán, sóng thần, động đất, tai nạn, già bệnh v.v…

    Nào là khi mới sanh ra, chưa kêu tiếng khóc chào đời, hoặc mới chập chững biết đi đã xa lìa cha mẹ, mới ngày nào mẹ mẹ, con con, mà giờ đây không còn nữa; rồi tai nạn giao thông chết tức tưởi, làm con người trong phút chốc đã trở thành người thiên cổ. Những nỗi đau thương, mất mát luôn rình rập chúng ta trong từng giây, từng phút trên thế gian này. Hiện nay, tai nạn giao thông đã làm cho biết bao người đang khoẻ mạnh bị chết tức tửi, rồi bệnh tật tấn công, kẻ chết non, người chết bất đắc kỳ tử, cái chết không tha thứ bất kỳ một ai, không phải chúng ta sinh ra chờ đến già, bệnh mới chết.

    Mọi người nên nhớ rằng, cái chết đến với chúng ta rất bất ngờ, không báo trước, không chờ đợi, không hẹn hò, không phải ai cũng đến già, bệnh rồi mới chết. Cái chết đến với chúng ta thiên hình vạn trạng không sao kể hết, người chết trẻ, kẻ chết già, người chết sông, kẻ chết suối, kẻ chết bụi, người chết bờ… người chết vì súng đạn, gươm đao, kẻ chết vì thiên tai, lũ lụt, người chết vì thiếu thốn, đói khát, lại có người vì uất hận, vì bức xúc mà quyên sinh, bức tử. Tóm lại, cái chết không ai có thể thoát khỏi và trốn được.

Thích Đạt Ma Phổ Giác

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 61)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 144)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 167)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 222)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 151)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 203)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 187)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 222)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 236)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 317)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 558)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 422)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 434)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 529)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 718)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 767)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 798)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 799)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 693)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 680)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 684)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 792)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 813)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 907)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 676)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 582)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 682)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 804)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 685)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 693)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 789)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 812)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 794)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 838)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 864)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 855)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1042)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 916)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1578)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1023)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1172)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 921)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1173)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1086)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1083)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1230)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1507)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1941)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1054)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1317)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1062)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 915)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1041)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1076)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1495)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1237)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1255)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 991)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1149)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant