Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Thiền Đi Bộ

24 Tháng Năm 201914:09(Xem: 4025)
Thiền Đi Bộ

Thiền Đi Bộ

 

Arinna Weisman và Jean Smith

Huỳnh Kim Quang dịch

 

Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ. Trong Kinh nói Đức Phật lúc nào cũng ở trong đại định, như vậy thì lúc đi bộ Đức Phật cũng thiền. 

Cho nên, ngày nay khi chúng ta nói đến thiền đi bộ thì không là vấn đề mới mẻ gì cả. Nhưng đôi khi chúng ta lại ít để tâm thực tập đúng theo phương thức để mang lại sự an tịnh cho thân tâm trong cuộc sống hàng ngày. 

Hai tác giả Arinna Weisman và Jean Smith sẽ làm sáng tỏ cách thực tập thiền đi bộ rất phổ thông này, qua sự hướng dẫn chi tiết dưới đây.

Việc đi bộ có thể là cơ hội kỳ diệu khác để thực hành chánh niệm. Từng giây phút có thể tăng cường sự tỉnh thức và đôi khi là đối tượng dễ tiếp cận thiền hơn hít thở.

Các kỹ thuật thiền hành chính thống thì khác nhau trong những trường phái khác biệt của Phật Giáo Nguyên Thủy. Trong truyền thống Miến Điện và trong các khóa tu Thiền Minh Sát, các thiển giả thường đi bộ một mình, hơn là đi theo đoàn người, như đã được thực hành trong các truyền thống Phật Giáo khác. 

Lời khuyên là đi bộ lui và tới giữa khoảng cách từ 20 tới 30 feet [hay từ 6 mét tới 9 mét], sẽ giúp cho chúng ta không bị vướng vào “việc đi tới nơi nào đó.” Chúng ta thực tập việc đi bộ chỉ là để đi bộ. Việc chọn một nơi để thực tập từ lúc bắt đầu khoảng thời gian đi bộ cũng loại trừ việc mất thời gian quyết định nơi nào chúng ta phải đi bộ. Chúng ta nên cố giữ nơi mà chúng ta đã chọn bởi vì chúng ta thường đối diện với các ý muốn như “Chỗ này quá ổn sào. Tôi nên đi bộ phía sau nhà.” Nhưng phía sau nhà thì quá lạnh, như thế chúng ta phải tìm một nơi ấm áp. Nhưng hỡi ôi, thật là kinh khủng bởi vì những nơi ấm ấp thì đông người và chúng ta không thể thiền hành trừ ra chúng ta đơn độc. Những do dự đó đã làm mất 30 phút do đó chúng ta quyết định bỏ. 

Khi quý vị đã chọn được một nơi rồi, thì hãy phân chia việc thiền hành ra làm 3 giai đoạn. Trong khoảng thời gian thứ nhất, có lẽ từ 10 tới 15 phút, đi bộ chậm hơn một tí so với lúc quý vị đi bộ bình thường. Trong khoảng thời gian thứ hai, cũng từ 10 tới 15 phút, hãy đi bộ chậm hơn nữa. Trong khoảng thời gian thứ ba, hãy đi bộ thật chậm.

Cũng tốt, thay vì chia việc đi bộ của quý vị ra làm 3 khoảng thời gian, thì chọn một trong những tốc độ và đi bộ lui và tới cùng tốc độ đó. Tất cả sự thực tập trong truyền thống này, cách nào quý vị cảm thấy thích hợp với mình, tùy theo các điều kiện, thì quý vị nên thực tập theo cách đó.

Bây giờ hãy thực tập. Khởi đầu, như quý vị đã thực tập thiền tọa, qua sự nhận biết chú tâm của quý vị và hãy cam kết giữ chánh niệm trong suốt sự thực tập này. 

Trong phần đầu thiền hành, cho phép sự tỉnh thức của quý vị tập trung vào cảm nhận từng bước đi trên mặt đất. Nếu quý vị muốn đem thêm năng lực vào – và một trong những điều kỳ diệu về thiền hành là nó thực sự mang năng lực vào tâm quý vị -- nhấc đầu gối cao hơn một chút và bước ngắn lại, để quý vị đi những bước ngắn hơn. Ghi nhận cảm giảc của từng bước đi trên mặt đất: Bước đi, bước đi, bước đi…

Trong phần kế tiếp, hãy đi chậm vừa đủ để quý vị ghi nhận từng nhấc chân lên và rồi từng bước chân đi trên mặt đất. Nhấc chân lên, bước đi -- nhấc lên, bước đi -- nhấc lên, bước đi. Quý vị sẽ ghi nhận, như khi ngồi thiền, rằng tâm chạy lung tung rất nhiều lúc. Không sao cả. Chỉ mang nó trở lại với cảm giác của việc nhấc chân lên và bước đi, và hãy nhận biết trình tự đó. Quý vị nhận biết mình đang nhấc chân lên khi quý vị nhấc chân lên, và quý vị nhận biết qúy vị đang bước đi khi quý vị bước đi. 

Trình tự sau cùng là nhấc chân, bước đi, di chuyển -- nhấc chân, bước đi, di chuyển. Trong giai đoạn này, hãy đi chậm vừa đủ để quý bị ghi nhận sự di chuyển của trọng lượng cơ thể và mức độ áp lực diễn ra từ chân này sang chân khác. Hãy bắt đầu ghi nhận chi tiết của kinh nghiệm này. Ghi nhận rằng khi bàn chân nhấc lên, các bắp thịt có thể hoạt động trong quý vị. Hãy quán sát cách mà bàn chân lướt qua mặt đất, cách bàn chân giở lên, rồi khi bước đi -- đừng di chuyển tức thì -- chỉ nhận biết việc bàn chân đặt lên mặt đất. Rồi hãy để trình tự tiếp tục diễn ra nữa, đừng đánh mất nhận biết đối với việc nhấc chân, bước đi, di chuyển -- nhấc chân, bước đi, di chuyển

Một số người thấy hữu ích trong việc ghi nhận -- chẳng hạn nói lời rất nhẹ trong tâm khi thực tập thiền hành. Khi họ đang nhấc chân thì nói, “Đang nhấc chân”; khi họ đang bước đi thì nói, “Đang bước đi”; khi họ đang di chuyển thì nói, “Đang di chuyển.”

Cẩn thận đừng để những lời ấy chiếm ưu thế hay ngay cả làm chủ -- chúng nên mờ nhạt – nhưng sự ghi nhận có thể giúp quý vị thêm một chút hậu thuẫn trong việc tỉnh thức tiến trình đi bộ và có thể giúp quý vị tiếp tục tập trung. 

Bổ sung cho sự ghi nhận, việc đi bộ bằng cách tính -- tập trung vào sự phát triển an định và tập trung tinh thần – là sự thực tập khác có thể giúp quý vị khi tâm bị tán loạn. Trong sự thực tập này, quý vị có thể đi bộ ở một nơi bình thường. Khi quý vị bước thứ nhất, quý vị đếm 1. Trên 2 bước kế tiếp, quý vị đếm 1, 2. Trên 3 bước kế tiếp, quý vị đếm 1, 2, 3. Trên 4 bước tiếp theo là 1, 2, 3, 4, và cứ thế đếm cho đến bước thứ 10. Khi quý vị đếm tới bước thứ 10, rồi đếm 10, 9 cho 2 bước sau đó; rồi 10, 9, 8 cho 3 bước tiếp theo, v.v…

Bất cứ khi nào quý vị mất tập trung, thì quý vị hãy trở lại đếm số 1. Điều thường xảy ra là khi quý vị đang ở giữa trình tự và đếm tới 10, rồi quý vị đếm 11 – quý vị không nhớ chuyển trở lại bởi vì quý vị bị tán tâm; quý vị theo thói quen. Nếu quý vị muốn di chuyển thân thể trong lúc chú tâm, thì việc đếm số là rất hữu ích. Quý vị có thể thực tập điều đó trong một không gian ngắn và cứ đi vòng lại, hay quý vị có thể thực tập điều đó trên cuộc đi bộ dài bằng cách thường xuyên bắt đầu đếm trở lại

Khi quý vị đang đi bộ, sự chú tâm ưu tiên của quý vị là vào các cảm nhận việc đi bộ. Đôi khi quý vị sẽ ghi nhận rằng quý vị không chú tâm vào việc đang đi bộ mà lại để ý đến việc đang thấy hay đang nghe – là kinh nghiệm rất bình thường. Khi điều đó xảy ra, chi ghi nhận, “Đang thấy” hay “đang nghe,” và trở lại đang đi bộ. Nếu, trong thời gian thực tập chính thức, quý vị muốn nhìn điều gì đó, hãy nhận biết sự chú tâm này, dừng đi bộ, nhìn điều gì quý vị muốn nhìn, rồi tiếp tục đi bộ với sự chú tâm vào các bước đi. 

Thực tập đi bộ nghiêm túc có thể không thích hợp trong cuộc sống hàng ngày của quý vị. Có lẽ thời gian duy nhất để quý vị thực tập đi bộ là khi quý vị dắt chó ra ngoài vào buổi sáng, và không có cách nào để quý vị có thể thực tập việc nhấc chân, bước đi, di chuyển. Không sao. Chỉ tỉnh thức toàn diện việc đi bộ và ghi nhận liên tục cơ thể của quý vị cảm giác thế nào trong lúc di chuyển. Hay quý vị có thể thấy dễ dàng hơn trong việc chú tâm vào bàn chân, ghi nhận việc đặt chân lên đất, tiếp xúc với mặt đất, và cảm nhận nhịp bước đi. Loại chánh niệm này là giá trị tương đương đi bộ nghiêm túc. Không có cách nào tốt hơn cách nào. Cả hai đều hữu ích theo cách riêng, như thế cách nào quý vị chọn để thực tậptùy theo các hoàn cảnh trong cuộc sống của chính quý vị. 

Chạy bộ cũng có thể trở thành phương thức thực tập của chúng ta nữa -- cảm nhận sự chuyển động toàn thân, và đặc biệt nhịp bước chân trên mặt đất. Vận động cơ thể trong môt số cách thức như yoga hay từ cảm thức nội tại của chính chúng ta về động tác, việc tập thể dục, và thực tập yoga có thể là một phần của việc thực tập chánh niệm của chúng ta.

Trích từ tác phẩm  “The Beginner’s Guide to Insight Meditation” [Hướng Dẫn Thiền Minh Sát Cho Người Sơ Cơ] của 2 tác giả Arinna Weisman và Jean Smith, theo trang mạng Phật Giáo Lion’s Roar phổ biến ngày 2 tháng 4 năm 2019. Độc giả có thể đọc nguyên tác Anh ngữ ở đây:

https://www.lionsroar.com/mindful-walking-how-to-do-walking-meditation/

 

***

 

Về 2 tác giả Arinna Weisman và Jean Smith:

Arinna Weisman là giáo sư hướng dẫn cho Lotus Sisters. Bà đã nghiên cứu về thiền minh sát kể từ năm 1979 và dạy thiền kể từ năm 1989. Thân giáo sư của bà là Ruth Denison, là người được truyền thụ để dạy thiền bởi thiền sư U Bha Khin. Bà là người sáng lập Trung Tâm Thiền Insight Meditation Center of Pioneer Valley tại tiểu bang Massachusetts. Bà cũng là đồng tác giả của cuốn sách “A Beginner’s Guide to Insight Meditation,” và là người chấp bút cho cuốn sách “Women Practicing Buddhism: American Experiences,” được hiệu đính bởi Peter Gregory và Susanne Mrozik.

Jean Smith là nhà văn/người biên tập của nhiều cuốn sách về Phật Giáo, gồm cuốn “365 Zen,” “A Beginner’s Guide to Insight Meditation,”và “Breath Sweeps Mind.” Là thành viên lâu đời của Insight Meditation Society, bà là chủ tịch hội đồng điều hành của Mountain Retreat Center, tại Taos, New Mexico, nơi bà sinh sống.

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 44)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 163)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 216)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 410)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 310)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 338)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 623)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 679)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 640)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 687)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 600)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 546)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 686)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 702)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 492)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 575)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 670)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 589)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 591)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 711)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 704)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 769)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 795)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 770)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 962)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 829)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1389)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 914)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1080)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1063)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 994)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 981)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1122)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1400)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1750)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 971)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1161)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 972)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 827)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 950)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 973)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1395)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1145)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1175)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 925)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1070)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1521)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1398)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1392)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 981)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1375)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1290)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant