Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Thiền Đi Bộ

24 Tháng Năm 201914:09(Xem: 4114)
Thiền Đi Bộ

Thiền Đi Bộ

 

Arinna Weisman và Jean Smith

Huỳnh Kim Quang dịch

 

Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ. Trong Kinh nói Đức Phật lúc nào cũng ở trong đại định, như vậy thì lúc đi bộ Đức Phật cũng thiền. 

Cho nên, ngày nay khi chúng ta nói đến thiền đi bộ thì không là vấn đề mới mẻ gì cả. Nhưng đôi khi chúng ta lại ít để tâm thực tập đúng theo phương thức để mang lại sự an tịnh cho thân tâm trong cuộc sống hàng ngày. 

Hai tác giả Arinna Weisman và Jean Smith sẽ làm sáng tỏ cách thực tập thiền đi bộ rất phổ thông này, qua sự hướng dẫn chi tiết dưới đây.

Việc đi bộ có thể là cơ hội kỳ diệu khác để thực hành chánh niệm. Từng giây phút có thể tăng cường sự tỉnh thức và đôi khi là đối tượng dễ tiếp cận thiền hơn hít thở.

Các kỹ thuật thiền hành chính thống thì khác nhau trong những trường phái khác biệt của Phật Giáo Nguyên Thủy. Trong truyền thống Miến Điện và trong các khóa tu Thiền Minh Sát, các thiển giả thường đi bộ một mình, hơn là đi theo đoàn người, như đã được thực hành trong các truyền thống Phật Giáo khác. 

Lời khuyên là đi bộ lui và tới giữa khoảng cách từ 20 tới 30 feet [hay từ 6 mét tới 9 mét], sẽ giúp cho chúng ta không bị vướng vào “việc đi tới nơi nào đó.” Chúng ta thực tập việc đi bộ chỉ là để đi bộ. Việc chọn một nơi để thực tập từ lúc bắt đầu khoảng thời gian đi bộ cũng loại trừ việc mất thời gian quyết định nơi nào chúng ta phải đi bộ. Chúng ta nên cố giữ nơi mà chúng ta đã chọn bởi vì chúng ta thường đối diện với các ý muốn như “Chỗ này quá ổn sào. Tôi nên đi bộ phía sau nhà.” Nhưng phía sau nhà thì quá lạnh, như thế chúng ta phải tìm một nơi ấm áp. Nhưng hỡi ôi, thật là kinh khủng bởi vì những nơi ấm ấp thì đông người và chúng ta không thể thiền hành trừ ra chúng ta đơn độc. Những do dự đó đã làm mất 30 phút do đó chúng ta quyết định bỏ. 

Khi quý vị đã chọn được một nơi rồi, thì hãy phân chia việc thiền hành ra làm 3 giai đoạn. Trong khoảng thời gian thứ nhất, có lẽ từ 10 tới 15 phút, đi bộ chậm hơn một tí so với lúc quý vị đi bộ bình thường. Trong khoảng thời gian thứ hai, cũng từ 10 tới 15 phút, hãy đi bộ chậm hơn nữa. Trong khoảng thời gian thứ ba, hãy đi bộ thật chậm.

Cũng tốt, thay vì chia việc đi bộ của quý vị ra làm 3 khoảng thời gian, thì chọn một trong những tốc độ và đi bộ lui và tới cùng tốc độ đó. Tất cả sự thực tập trong truyền thống này, cách nào quý vị cảm thấy thích hợp với mình, tùy theo các điều kiện, thì quý vị nên thực tập theo cách đó.

Bây giờ hãy thực tập. Khởi đầu, như quý vị đã thực tập thiền tọa, qua sự nhận biết chú tâm của quý vị và hãy cam kết giữ chánh niệm trong suốt sự thực tập này. 

Trong phần đầu thiền hành, cho phép sự tỉnh thức của quý vị tập trung vào cảm nhận từng bước đi trên mặt đất. Nếu quý vị muốn đem thêm năng lực vào – và một trong những điều kỳ diệu về thiền hành là nó thực sự mang năng lực vào tâm quý vị -- nhấc đầu gối cao hơn một chút và bước ngắn lại, để quý vị đi những bước ngắn hơn. Ghi nhận cảm giảc của từng bước đi trên mặt đất: Bước đi, bước đi, bước đi…

Trong phần kế tiếp, hãy đi chậm vừa đủ để quý vị ghi nhận từng nhấc chân lên và rồi từng bước chân đi trên mặt đất. Nhấc chân lên, bước đi -- nhấc lên, bước đi -- nhấc lên, bước đi. Quý vị sẽ ghi nhận, như khi ngồi thiền, rằng tâm chạy lung tung rất nhiều lúc. Không sao cả. Chỉ mang nó trở lại với cảm giác của việc nhấc chân lên và bước đi, và hãy nhận biết trình tự đó. Quý vị nhận biết mình đang nhấc chân lên khi quý vị nhấc chân lên, và quý vị nhận biết qúy vị đang bước đi khi quý vị bước đi. 

Trình tự sau cùng là nhấc chân, bước đi, di chuyển -- nhấc chân, bước đi, di chuyển. Trong giai đoạn này, hãy đi chậm vừa đủ để quý bị ghi nhận sự di chuyển của trọng lượng cơ thể và mức độ áp lực diễn ra từ chân này sang chân khác. Hãy bắt đầu ghi nhận chi tiết của kinh nghiệm này. Ghi nhận rằng khi bàn chân nhấc lên, các bắp thịt có thể hoạt động trong quý vị. Hãy quán sát cách mà bàn chân lướt qua mặt đất, cách bàn chân giở lên, rồi khi bước đi -- đừng di chuyển tức thì -- chỉ nhận biết việc bàn chân đặt lên mặt đất. Rồi hãy để trình tự tiếp tục diễn ra nữa, đừng đánh mất nhận biết đối với việc nhấc chân, bước đi, di chuyển -- nhấc chân, bước đi, di chuyển

Một số người thấy hữu ích trong việc ghi nhận -- chẳng hạn nói lời rất nhẹ trong tâm khi thực tập thiền hành. Khi họ đang nhấc chân thì nói, “Đang nhấc chân”; khi họ đang bước đi thì nói, “Đang bước đi”; khi họ đang di chuyển thì nói, “Đang di chuyển.”

Cẩn thận đừng để những lời ấy chiếm ưu thế hay ngay cả làm chủ -- chúng nên mờ nhạt – nhưng sự ghi nhận có thể giúp quý vị thêm một chút hậu thuẫn trong việc tỉnh thức tiến trình đi bộ và có thể giúp quý vị tiếp tục tập trung. 

Bổ sung cho sự ghi nhận, việc đi bộ bằng cách tính -- tập trung vào sự phát triển an định và tập trung tinh thần – là sự thực tập khác có thể giúp quý vị khi tâm bị tán loạn. Trong sự thực tập này, quý vị có thể đi bộ ở một nơi bình thường. Khi quý vị bước thứ nhất, quý vị đếm 1. Trên 2 bước kế tiếp, quý vị đếm 1, 2. Trên 3 bước kế tiếp, quý vị đếm 1, 2, 3. Trên 4 bước tiếp theo là 1, 2, 3, 4, và cứ thế đếm cho đến bước thứ 10. Khi quý vị đếm tới bước thứ 10, rồi đếm 10, 9 cho 2 bước sau đó; rồi 10, 9, 8 cho 3 bước tiếp theo, v.v…

Bất cứ khi nào quý vị mất tập trung, thì quý vị hãy trở lại đếm số 1. Điều thường xảy ra là khi quý vị đang ở giữa trình tự và đếm tới 10, rồi quý vị đếm 11 – quý vị không nhớ chuyển trở lại bởi vì quý vị bị tán tâm; quý vị theo thói quen. Nếu quý vị muốn di chuyển thân thể trong lúc chú tâm, thì việc đếm số là rất hữu ích. Quý vị có thể thực tập điều đó trong một không gian ngắn và cứ đi vòng lại, hay quý vị có thể thực tập điều đó trên cuộc đi bộ dài bằng cách thường xuyên bắt đầu đếm trở lại

Khi quý vị đang đi bộ, sự chú tâm ưu tiên của quý vị là vào các cảm nhận việc đi bộ. Đôi khi quý vị sẽ ghi nhận rằng quý vị không chú tâm vào việc đang đi bộ mà lại để ý đến việc đang thấy hay đang nghe – là kinh nghiệm rất bình thường. Khi điều đó xảy ra, chi ghi nhận, “Đang thấy” hay “đang nghe,” và trở lại đang đi bộ. Nếu, trong thời gian thực tập chính thức, quý vị muốn nhìn điều gì đó, hãy nhận biết sự chú tâm này, dừng đi bộ, nhìn điều gì quý vị muốn nhìn, rồi tiếp tục đi bộ với sự chú tâm vào các bước đi. 

Thực tập đi bộ nghiêm túc có thể không thích hợp trong cuộc sống hàng ngày của quý vị. Có lẽ thời gian duy nhất để quý vị thực tập đi bộ là khi quý vị dắt chó ra ngoài vào buổi sáng, và không có cách nào để quý vị có thể thực tập việc nhấc chân, bước đi, di chuyển. Không sao. Chỉ tỉnh thức toàn diện việc đi bộ và ghi nhận liên tục cơ thể của quý vị cảm giác thế nào trong lúc di chuyển. Hay quý vị có thể thấy dễ dàng hơn trong việc chú tâm vào bàn chân, ghi nhận việc đặt chân lên đất, tiếp xúc với mặt đất, và cảm nhận nhịp bước đi. Loại chánh niệm này là giá trị tương đương đi bộ nghiêm túc. Không có cách nào tốt hơn cách nào. Cả hai đều hữu ích theo cách riêng, như thế cách nào quý vị chọn để thực tậptùy theo các hoàn cảnh trong cuộc sống của chính quý vị. 

Chạy bộ cũng có thể trở thành phương thức thực tập của chúng ta nữa -- cảm nhận sự chuyển động toàn thân, và đặc biệt nhịp bước chân trên mặt đất. Vận động cơ thể trong môt số cách thức như yoga hay từ cảm thức nội tại của chính chúng ta về động tác, việc tập thể dục, và thực tập yoga có thể là một phần của việc thực tập chánh niệm của chúng ta.

Trích từ tác phẩm  “The Beginner’s Guide to Insight Meditation” [Hướng Dẫn Thiền Minh Sát Cho Người Sơ Cơ] của 2 tác giả Arinna Weisman và Jean Smith, theo trang mạng Phật Giáo Lion’s Roar phổ biến ngày 2 tháng 4 năm 2019. Độc giả có thể đọc nguyên tác Anh ngữ ở đây:

https://www.lionsroar.com/mindful-walking-how-to-do-walking-meditation/

 

***

 

Về 2 tác giả Arinna Weisman và Jean Smith:

Arinna Weisman là giáo sư hướng dẫn cho Lotus Sisters. Bà đã nghiên cứu về thiền minh sát kể từ năm 1979 và dạy thiền kể từ năm 1989. Thân giáo sư của bà là Ruth Denison, là người được truyền thụ để dạy thiền bởi thiền sư U Bha Khin. Bà là người sáng lập Trung Tâm Thiền Insight Meditation Center of Pioneer Valley tại tiểu bang Massachusetts. Bà cũng là đồng tác giả của cuốn sách “A Beginner’s Guide to Insight Meditation,” và là người chấp bút cho cuốn sách “Women Practicing Buddhism: American Experiences,” được hiệu đính bởi Peter Gregory và Susanne Mrozik.

Jean Smith là nhà văn/người biên tập của nhiều cuốn sách về Phật Giáo, gồm cuốn “365 Zen,” “A Beginner’s Guide to Insight Meditation,”và “Breath Sweeps Mind.” Là thành viên lâu đời của Insight Meditation Society, bà là chủ tịch hội đồng điều hành của Mountain Retreat Center, tại Taos, New Mexico, nơi bà sinh sống.

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1519)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1467)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1049)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1446)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1382)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1304)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1347)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1676)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1884)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1399)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1063)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1399)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 1963)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1440)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1529)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1363)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2813)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1353)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1391)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1697)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1647)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1608)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1449)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2615)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1596)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1589)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1388)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1406)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1585)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1525)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1417)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1389)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1487)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2167)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1522)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1470)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1584)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1811)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1500)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1361)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1638)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1377)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1668)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2339)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1439)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1926)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1648)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1723)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1593)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1919)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1645)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1407)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1695)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1542)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1513)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1298)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1227)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1271)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1501)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1613)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant