Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bốn Chân Lí Cao Qúy

28 Tháng Năm 201910:42(Xem: 3850)
Bốn Chân Lí Cao Qúy

BỐN CHÂN LÍ CAO QÚY
Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc
Bản Anh:The Four Noble Truths
Trích từ: Entering the Path of Wisdom (Nhập Đạo Lộ của Trí Tuệ Siêu Việt)

 

Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và vềđạo lộ. Có mười hai phương diện khi mỗi chân lí của bốn chân lí được nhân với ba:

Chân lí về khổ là bình chứa và các nội hàm của nó (thế giớichúng hữu tình).Chân lí về nguồn gốc là các hành nghiệp và các phiền não.Chân lí về diệt tậnlà tính đức của buông bỏ cả hai các hành nghiệp vàcác phiền não cùng với các hiệu quả của chúng.Chân lí vềđạo lộ là các đạo lộ và các địa.

1. Miêu tả tinh yếu của chúng: chân lí về khổ giống như một bệnh, chân lí về nguồn gốc giống như nguyên nhân của bệnh, chân lí về diệt tận giống như hồi phụccách tuyệt bệnh, và chân lí vềđạo lộ giống như thực hànhmột chữa trị dứt khoát đối với bệnh.

2.Miêu tả chức năng của chúng:chân lí về khổ, nó giống như một bệnh, là cái nên được nhận biết; chân lí về nguồn gốc, nó giống như nguyên nhân của bệnh, là cái nên được buông bỏ; chân lí vềdiệt tận, nó giống như hồi phục cách tuyệt với bệnh, là cái nên được thật chứng; và chân lí vềđạo lộ, nó giống như là thuốc, là cái nên được áp dụng trong đờisống của bạn.

3. Miêu tả về kết quả: Sau khi nhận biết chân lí về khổ, nó giống như một bệnh, nó không là một sựvật để nhận biết một lần nữa. Sau khi buông bỏ chân lí về nguồn gốc, nó giống như nguyên nhân của bệnh, nó không là một sự vật để buông bỏ một lần nữa.Sau khi thật chứng chân lí về diệt tận, nó giống nhưhồi phục cách tuyệt bệnh, nó không là một sự vật để thật chứng một lần nữa.Sau khi áp dụng trong đời sống của bạn chân lí vềđạo lộ, nó giống như một thuốc, nó không là một sự vật đểáp dụng một lần nữa.

Phương diện của hiện hữu có tính sinh tử luân hồi (trạng thái của các phiền não) là hai:sựđau khổ(hiệu quả của sinh tửluân hồi) và nguồn gốc (nguyên nhân của sinh tửluân hồi). Phương diện của tịch tĩnh là hai: sự diệt tận (hiệu quả của sinh tửluân hồi)vàđạo lộ (nguyên nhân của niết bàn).

Mười sáu phương diện / hành tướng của bốn chân lí:

Vô thường, khổ, không, và vô ngã.

Nhân (nguyên nhân), tập (nguồn gốc), sinh (sản phẩm/sở sinh), vàduyên.

Diệt, tĩnh, diệu, và li.

Đạo (đạo lộ), như (trí tuệ), hành (thành tựu), xuất (giải thoát).

Bốn phương diện của chân lí về khổ: Tất cả các pháp hữu vi (pháp do tạo tác) đều vô thường. Tất cả các hiện tượng có tính sinh tửluân hồi đều là khổ.Tất cả các hiện tượng đối ngoại đều rỗng thông (chân không diệu viên).Tất cả các hiện tượng đối nội đều không có một thực thể hữu ngã (vô ngã).

Bốn phương diện của chân lí về nguồn gốc: Chấp ngãnguyên nhân bởi vì nó là gốc rễ của tất cảđau khổ. Nó là nguồn gốc (tập)bởi vì từ nó mà tất cảđau khổcó tính sinh tửluân hồi sinh khởi.Nó là sản phẩm bởi vì sựđau khổ bức bách này tạo ra đau đớn tức thời.Nó là duyên hội bởi vìđến từtiến trình trải nghiệm đau khổ.

Bốn phương diện của diệt tận: Nó là diệt tận bởi vì tất cả các nguyên nhânhiệu quả của đau khổ chấm dứt. Nó là tịch tĩnh bởi vì tất cả các phiền não của ngu si đã bị hàng phục. Nó làdiệu hảo bởi vìnó làtính đức tối thắngnổi bật.Nó làviễn li bởi vì nó không bị hoàn nghịch và giải thoát quyết định cách tuyệt sinh tử luân hồi.

Bốn phương diện của chân lí vềđạo lộ: Nó làđạo lộ bởi vì nó tiến bộtăng thượng. Nó là trí tuệ siêu việt bởi vì nó phục vụ trong vai trò là thuốc giải cho các phiền não. Nó là thành tựu bởi vì nó là thành tựu xác thực.Nó là giải thoát bởi vì nódẫn đến xuất li liên tụcniết bàn.

Tối thượng Tantra nói:

Bệnh nên được nhận biếtnguyên nhân của bệnh nên được buông bỏ.

Trong khi đó thuốc nên được áp dụng để đạt trạng thái lành mạnh.

Cũng giống vậy, khổ, nguyên nhân của nó, sự diệt tận của nó, và đạo lộ,

Nên được nhận biết, buông bỏ, thật chứng, và áp dụng.

------------------------------------------------

Phụ bản

Mười sáu hành tướng (attributes: thuộc tính) của Tứ Đế

1. Khổ đế:

1.1 Khổ: quán thân này là khổ

1.2 Không: quán nhân duyên sinh vốn không

1.3 Vô thường: quán nhân duyên giả hợp mà thành nên sanh diệt vô thường

1.4 Vô ngã: quán nhân duyên giả hợp mà thành nên thể vô ngã.

2. Tập đế:

2.1 Tập: quán chiêu tập quả khổ

2.2 Nhân: quán nguyên nhân của quả khổ.

2.3 Sinh: quán khổ quả sinh tương tục còn sinh.

2.4 Duyên: quán các duyên thành quả khổ.

3. Diệt đế:

3.1. Diệt: quán các lậu (phiền não) đã hết, sinh tử đoạn diệt.

3.2 Tĩnh: quán ba độc đều không, tâm này không loạn nên tĩnh.

3.3 Diệu: quán ra khỏi ba cõi, không ưu hoạn nên diệu.

3.4 Li: quán tất cả tai hại đều đã xa lìa.

4. Đạo đế:

4.1 Đạo: quán pháp môn này là đạo đến niết bàn.

4.2 Như: đạo hợp với chánh lí nên như.

4.3 Hành: do đây mà đi đến niết bàn.

4.4 Xuất: do đạo này mà ra khỏi sinh tử.

[trích từ “Quán Lư. Nhập Phật Chỉ Nam”. Bản dịch Nhựt Chiếu, in 1997]

-------------

*Đạo lộ: (path): con đường tu tập từ lúc thức tỉnh cho tới giác ngộ .

*Ngu si (delusion); Vô minh ( ignorance)

*Si, Ngu si, Vô minh, Vô trí, Vô kiến, Phi hiện quán, Hôn muội, Hắc ám … đều đồng nghĩa (Ngài Vô Trước giảng trong Du già Sư Địa Luận)

** Chú thích: Bản dịch Việt dịch từ :Appendix 2. The Four Noble Truths của Jamyang Drakpa Rinpoche (1365-1448) – trích từ The Light of Wisdom. Root Text by Padmasambhava. Commentary by Jamgon Kongtrul the Great.Shamhala.1995

------------------

Jamyang Drakpa (1365-1448)

The Four Noble Truths

The four truths are the truth of suffering, of origin, of the cessation, and of the path. There are twelve aspects when the four truths are multiplied by three each:

The truth of suffering is the vessel and its contents (the world and the beings). The truth of origin is the karmas and disturbing emotions. The truth of cessation is the quality of having relinquished both the karmas and disturbing emotions along with their effects. The truth of the path is the paths and bhumis.

1. Describing their substance or essence: the truth of suffering, which is like a sickness, the truth of origin is like the cause of the sickness, the truth of cessation is like having recovered from the sickness, and the truth of the path is like following a cure for the sickness.

2. Describing their functions: the truth of suffering, which is like a sickness, is what should be acknowledged; the truth of origin, which is like the cause of the sickness, is what should be relinquished; the truth of cessation, which is like having recovered from the sickness, is what should be realized; and the truth of the path, which is like a medicine, is what should be applied in one’s being.

3.Describing the result: After having acknowledged the truth of suffering, which is like a sickness, it is not something to acknowledge again. After having relinquished the truth of origin, which is like the cause of the sickness, it is not something to relinquish again. After having realized the truth of cessation, which is like having recovered from the sickness, it is not something to realize again. After having applied in one’s being the truth of the path, which is like a medicine, it is not something to apply again.

The aspect of samsaric existence (the state of affliction) is two: the suffering (theeffect of samsara) and the origin (the cause of samsara). The aspect of peace and perfection is two: the cessation (the effect of nirvana) and the path (the cause of nirvana).

The sixteen aspects of the four truths:

Impermanence, suffering, emptiness, and selflessness.

Cause, origin, production, and condition.

Cessation, peace, excellence, and deliverance.

Path, knowledge, accomplishment, and liberating.

The four aspects of the truth of suffering: All composite things are impermanent. All samsaric phenomena are suffering. All outer phenomena are emptiness. All inner phenomena are devoid of a self-entity.

The four aspects of truth of origin: Ego-clinging is the cause because it is the root of all suffering. It is the origin because from it all samsaric suffering arises. It is production because this forceful suffering produces immediate pain. It is the connecting condition because of experiencing suffering.

The four aspects of cessation: It is cessation because all causes and effects of suffering have ceased. It is peace because all the disturbing emotions of delusion have subsidied. It is excellence because it is the most sublime and eminent quality. It is deliverance because it does not reverse and is definitive liberation from samsara.

The four aspects of the truth of the path: It is the path because it progresses higher and higher. It is knowledge because it serves as the antidote to the disturbing emotions. It is accomplishment because it is genuine achievement. It is liberating because it leads to perpetual emancipation and nirvana.

The Uttaratantra says:

The sickness should be acknowledged and the cause of the sickness relinquished.

While the medicine should be applied in order to attain the state of ease.

Likewise, the suffering, its cause, its cessation, and the path

Should be acknowledged, relinquished, realized, and applied.

--------------------------------------

Source: The Light of Wisdom. Root texts by Padmasambhava. Commentary by Jamgon Kongtrul the Great.Shambhala.1995.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 30650)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 21005)
Gốc rễ của tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực là sự dính mắc, thủ trước, hay chấp ngã của chúng ta với những thứ, những vật, những sự kiện như tồn tại thực sự.
(Xem: 20194)
Nguyện mang lại an vui, Cho tất cả chúng sinh. Tôi xin yêu thương họ, Với tất cả lòng tôi.
(Xem: 19421)
Tâm vốn không thiện không ác, chỉ vì có Hành nên có thức qua trung gian của Tâm mà ta gọi Tâm thiện tâm ác. Gọi như thế là ta gọi cái trạng thái của thức mà thôi.
(Xem: 24375)
Để có thể ý thức được sự kiện tất cả các hiện tượng ảo giác đều không khác nhau trên phương diện tánh không, thì nhất thiết phải tập trung sự suy tư thẳng vào tánh không.
(Xem: 30646)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 15680)
Người Phật tử ngày nay, nếu có một tiêu chuẩn nào cần nhớ và suy xét kĩ lưỡng trên bước đường tu học của mình, thì có lẽ đó là Trung Đạo.
(Xem: 27778)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 19760)
Từ bi là một phản ứng của tâm thức khi nó không thể chịu đựng nổi trước những cảnh khổ đau của người khác và phát lộ những ước nguyện mãnh liệt...
(Xem: 15564)
Qua tinh thần kinh Hiền Nhân, chúng ta nhận ra một cái nhìn về đạo đức Phật giáo trong việc ứng xử giữa người với người, là một bài học quý giá...
(Xem: 23238)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23556)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 17521)
Năm uẩn của chúng ta -- thân thể, cảm giác, nhận thức, thúc đẩy, thức: chúng là đất sét mà chúng ta nhào nặn và tạo hình qua sự thực tập thành một vị bồ tát...
(Xem: 15688)
Giải thoát sanh tử không phải là hiện đời không chết, không phải là sống mãi ở vị lai, mà là những khổ sanh tửvị lai không còn sanh khởi nữa...
(Xem: 21860)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 37979)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 22134)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 23225)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 21333)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 28407)
Mục đích giáo dục của đức Phật là làm thế nào để đoạn trừ, hay tối thiểu làm giảm bớt những khổ đau của con người, đưa con người đến một đời sống an lạchạnh phúc...
(Xem: 32529)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 25167)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34676)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 22931)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27695)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 31285)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13591)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh.
(Xem: 25155)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27799)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 22071)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 20722)
Trước khi vào nội dung đề tài lần này thì có một nghi vấn đã được đặt ra như sau: "Mục tiêu của đạo Phật vốn là để giải thoát hành giảchúng sinh khỏi đau khổ luân hồi...
(Xem: 22208)
Đạo Phật đã hình thành và phát triển hơn 2500 năm, cho đến nay, tôn giáo này đã đang được sự chú ý nghiên cứu ứng dụng của các nhà khoa học.
(Xem: 27104)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 24129)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 21884)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 14704)
Đức Phật là vị A-la-hán đầu tiên. Các vị A-la-hán đệ tử của ngài đều giống ngài và các vị Bồ-tát ở chỗ sau khi chứng đạt giải thoát, tiếp tục cứu độ nhân loại...
(Xem: 23139)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 24006)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 21091)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 14193)
Nghiệp một phần được biểu hiện qua quy luật nhân quả. Những gì chúng ta đang trải qua là kết quả của các nghiệp nhân do chính ta đã tạo trước kia.
(Xem: 19926)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 22493)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 14061)
Trong tâm của chúng ta, nước là do ái mà hiện tướng. Nước là thứ đi xuống, chảy xuống, chứ không bao giờ chảy lên. Hễ có sân, ghét, bực bội thì có lửa, phực lửa bật ra...
(Xem: 28022)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 22805)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 28185)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 10976)
Nếu chúng ta sống với tâm hồn vô tư, biết vận dụng thời gian vào những việc làm có ích, quảng kết thiện duyên, tất nhiên thời gian đó là thời gian hữu ích phú quý.
(Xem: 28489)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 31551)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 26160)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 14933)
"Người ta không bao giờ tắm hai lần trên một con sông" triết gia Hy Lạp cổ đại Hêraclitôxơ đã nói như vậy cách đây 2.500 năm.
(Xem: 28032)
Trong phần thứ nhất, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giảng về Bồ-đề tâm và cách tu tập của những người Bồ-tát. Trong phần thứ hai, Ngài giảng về Triết lý của Trung Đạo.
(Xem: 7427)
Phật GiáoTâm Lý Học Hiện Đại do ban biên tập của Bồ Đề Học Xã biên soạn, là một tài liệu giá trị cho những ai muốn tìm hiểu sự khác và giống giữa Phật PhápTâm lý Học Trị Liệu Tây phương.
(Xem: 25342)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 20694)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng ta không thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(Xem: 21117)
Sách này có hai phần: Đạt-lại Lạt-ma tại Harvard, bao gồm các khóa trình được thực hiện tại đại học Harvard, được giáo sư Jeffrey Hopkins dịch từ Tạng sang Anh ngữ...
(Xem: 12227)
Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
(Xem: 11900)
Mục đích của Ðạo Phật là giải thoátgiác ngộ, và chỉ có trí tuệ mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12795)
Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại...
(Xem: 26638)
Nếu Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc an lạc, nếp sống ấy cũng là một nếp sống đề cao cho con người vào một vị trí tối thượng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant