Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bốn Chân Lí Cao Qúy

28 Tháng Năm 201910:42(Xem: 3833)
Bốn Chân Lí Cao Qúy

BỐN CHÂN LÍ CAO QÚY
Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc
Bản Anh:The Four Noble Truths
Trích từ: Entering the Path of Wisdom (Nhập Đạo Lộ của Trí Tuệ Siêu Việt)

 

Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và vềđạo lộ. Có mười hai phương diện khi mỗi chân lí của bốn chân lí được nhân với ba:

Chân lí về khổ là bình chứa và các nội hàm của nó (thế giớichúng hữu tình).Chân lí về nguồn gốc là các hành nghiệp và các phiền não.Chân lí về diệt tậnlà tính đức của buông bỏ cả hai các hành nghiệp vàcác phiền não cùng với các hiệu quả của chúng.Chân lí vềđạo lộ là các đạo lộ và các địa.

1. Miêu tả tinh yếu của chúng: chân lí về khổ giống như một bệnh, chân lí về nguồn gốc giống như nguyên nhân của bệnh, chân lí về diệt tận giống như hồi phụccách tuyệt bệnh, và chân lí vềđạo lộ giống như thực hànhmột chữa trị dứt khoát đối với bệnh.

2.Miêu tả chức năng của chúng:chân lí về khổ, nó giống như một bệnh, là cái nên được nhận biết; chân lí về nguồn gốc, nó giống như nguyên nhân của bệnh, là cái nên được buông bỏ; chân lí vềdiệt tận, nó giống như hồi phục cách tuyệt với bệnh, là cái nên được thật chứng; và chân lí vềđạo lộ, nó giống như là thuốc, là cái nên được áp dụng trong đờisống của bạn.

3. Miêu tả về kết quả: Sau khi nhận biết chân lí về khổ, nó giống như một bệnh, nó không là một sựvật để nhận biết một lần nữa. Sau khi buông bỏ chân lí về nguồn gốc, nó giống như nguyên nhân của bệnh, nó không là một sự vật để buông bỏ một lần nữa.Sau khi thật chứng chân lí về diệt tận, nó giống nhưhồi phục cách tuyệt bệnh, nó không là một sự vật để thật chứng một lần nữa.Sau khi áp dụng trong đời sống của bạn chân lí vềđạo lộ, nó giống như một thuốc, nó không là một sự vật đểáp dụng một lần nữa.

Phương diện của hiện hữu có tính sinh tử luân hồi (trạng thái của các phiền não) là hai:sựđau khổ(hiệu quả của sinh tửluân hồi) và nguồn gốc (nguyên nhân của sinh tửluân hồi). Phương diện của tịch tĩnh là hai: sự diệt tận (hiệu quả của sinh tửluân hồi)vàđạo lộ (nguyên nhân của niết bàn).

Mười sáu phương diện / hành tướng của bốn chân lí:

Vô thường, khổ, không, và vô ngã.

Nhân (nguyên nhân), tập (nguồn gốc), sinh (sản phẩm/sở sinh), vàduyên.

Diệt, tĩnh, diệu, và li.

Đạo (đạo lộ), như (trí tuệ), hành (thành tựu), xuất (giải thoát).

Bốn phương diện của chân lí về khổ: Tất cả các pháp hữu vi (pháp do tạo tác) đều vô thường. Tất cả các hiện tượng có tính sinh tửluân hồi đều là khổ.Tất cả các hiện tượng đối ngoại đều rỗng thông (chân không diệu viên).Tất cả các hiện tượng đối nội đều không có một thực thể hữu ngã (vô ngã).

Bốn phương diện của chân lí về nguồn gốc: Chấp ngãnguyên nhân bởi vì nó là gốc rễ của tất cảđau khổ. Nó là nguồn gốc (tập)bởi vì từ nó mà tất cảđau khổcó tính sinh tửluân hồi sinh khởi.Nó là sản phẩm bởi vì sựđau khổ bức bách này tạo ra đau đớn tức thời.Nó là duyên hội bởi vìđến từtiến trình trải nghiệm đau khổ.

Bốn phương diện của diệt tận: Nó là diệt tận bởi vì tất cả các nguyên nhânhiệu quả của đau khổ chấm dứt. Nó là tịch tĩnh bởi vì tất cả các phiền não của ngu si đã bị hàng phục. Nó làdiệu hảo bởi vìnó làtính đức tối thắngnổi bật.Nó làviễn li bởi vì nó không bị hoàn nghịch và giải thoát quyết định cách tuyệt sinh tử luân hồi.

Bốn phương diện của chân lí vềđạo lộ: Nó làđạo lộ bởi vì nó tiến bộtăng thượng. Nó là trí tuệ siêu việt bởi vì nó phục vụ trong vai trò là thuốc giải cho các phiền não. Nó là thành tựu bởi vì nó là thành tựu xác thực.Nó là giải thoát bởi vì nódẫn đến xuất li liên tụcniết bàn.

Tối thượng Tantra nói:

Bệnh nên được nhận biếtnguyên nhân của bệnh nên được buông bỏ.

Trong khi đó thuốc nên được áp dụng để đạt trạng thái lành mạnh.

Cũng giống vậy, khổ, nguyên nhân của nó, sự diệt tận của nó, và đạo lộ,

Nên được nhận biết, buông bỏ, thật chứng, và áp dụng.

------------------------------------------------

Phụ bản

Mười sáu hành tướng (attributes: thuộc tính) của Tứ Đế

1. Khổ đế:

1.1 Khổ: quán thân này là khổ

1.2 Không: quán nhân duyên sinh vốn không

1.3 Vô thường: quán nhân duyên giả hợp mà thành nên sanh diệt vô thường

1.4 Vô ngã: quán nhân duyên giả hợp mà thành nên thể vô ngã.

2. Tập đế:

2.1 Tập: quán chiêu tập quả khổ

2.2 Nhân: quán nguyên nhân của quả khổ.

2.3 Sinh: quán khổ quả sinh tương tục còn sinh.

2.4 Duyên: quán các duyên thành quả khổ.

3. Diệt đế:

3.1. Diệt: quán các lậu (phiền não) đã hết, sinh tử đoạn diệt.

3.2 Tĩnh: quán ba độc đều không, tâm này không loạn nên tĩnh.

3.3 Diệu: quán ra khỏi ba cõi, không ưu hoạn nên diệu.

3.4 Li: quán tất cả tai hại đều đã xa lìa.

4. Đạo đế:

4.1 Đạo: quán pháp môn này là đạo đến niết bàn.

4.2 Như: đạo hợp với chánh lí nên như.

4.3 Hành: do đây mà đi đến niết bàn.

4.4 Xuất: do đạo này mà ra khỏi sinh tử.

[trích từ “Quán Lư. Nhập Phật Chỉ Nam”. Bản dịch Nhựt Chiếu, in 1997]

-------------

*Đạo lộ: (path): con đường tu tập từ lúc thức tỉnh cho tới giác ngộ .

*Ngu si (delusion); Vô minh ( ignorance)

*Si, Ngu si, Vô minh, Vô trí, Vô kiến, Phi hiện quán, Hôn muội, Hắc ám … đều đồng nghĩa (Ngài Vô Trước giảng trong Du già Sư Địa Luận)

** Chú thích: Bản dịch Việt dịch từ :Appendix 2. The Four Noble Truths của Jamyang Drakpa Rinpoche (1365-1448) – trích từ The Light of Wisdom. Root Text by Padmasambhava. Commentary by Jamgon Kongtrul the Great.Shamhala.1995

------------------

Jamyang Drakpa (1365-1448)

The Four Noble Truths

The four truths are the truth of suffering, of origin, of the cessation, and of the path. There are twelve aspects when the four truths are multiplied by three each:

The truth of suffering is the vessel and its contents (the world and the beings). The truth of origin is the karmas and disturbing emotions. The truth of cessation is the quality of having relinquished both the karmas and disturbing emotions along with their effects. The truth of the path is the paths and bhumis.

1. Describing their substance or essence: the truth of suffering, which is like a sickness, the truth of origin is like the cause of the sickness, the truth of cessation is like having recovered from the sickness, and the truth of the path is like following a cure for the sickness.

2. Describing their functions: the truth of suffering, which is like a sickness, is what should be acknowledged; the truth of origin, which is like the cause of the sickness, is what should be relinquished; the truth of cessation, which is like having recovered from the sickness, is what should be realized; and the truth of the path, which is like a medicine, is what should be applied in one’s being.

3.Describing the result: After having acknowledged the truth of suffering, which is like a sickness, it is not something to acknowledge again. After having relinquished the truth of origin, which is like the cause of the sickness, it is not something to relinquish again. After having realized the truth of cessation, which is like having recovered from the sickness, it is not something to realize again. After having applied in one’s being the truth of the path, which is like a medicine, it is not something to apply again.

The aspect of samsaric existence (the state of affliction) is two: the suffering (theeffect of samsara) and the origin (the cause of samsara). The aspect of peace and perfection is two: the cessation (the effect of nirvana) and the path (the cause of nirvana).

The sixteen aspects of the four truths:

Impermanence, suffering, emptiness, and selflessness.

Cause, origin, production, and condition.

Cessation, peace, excellence, and deliverance.

Path, knowledge, accomplishment, and liberating.

The four aspects of the truth of suffering: All composite things are impermanent. All samsaric phenomena are suffering. All outer phenomena are emptiness. All inner phenomena are devoid of a self-entity.

The four aspects of truth of origin: Ego-clinging is the cause because it is the root of all suffering. It is the origin because from it all samsaric suffering arises. It is production because this forceful suffering produces immediate pain. It is the connecting condition because of experiencing suffering.

The four aspects of cessation: It is cessation because all causes and effects of suffering have ceased. It is peace because all the disturbing emotions of delusion have subsidied. It is excellence because it is the most sublime and eminent quality. It is deliverance because it does not reverse and is definitive liberation from samsara.

The four aspects of the truth of the path: It is the path because it progresses higher and higher. It is knowledge because it serves as the antidote to the disturbing emotions. It is accomplishment because it is genuine achievement. It is liberating because it leads to perpetual emancipation and nirvana.

The Uttaratantra says:

The sickness should be acknowledged and the cause of the sickness relinquished.

While the medicine should be applied in order to attain the state of ease.

Likewise, the suffering, its cause, its cessation, and the path

Should be acknowledged, relinquished, realized, and applied.

--------------------------------------

Source: The Light of Wisdom. Root texts by Padmasambhava. Commentary by Jamgon Kongtrul the Great.Shambhala.1995.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13047)
Theo Luận Ðại thừa khởi tín, Nhứt Tâm có hai tướng: (1) tướng Chân như, chỉ riêng về phần thể tánh chơn tâm thanh tịnh; dụ như "tánh trong sạch" của nước...
(Xem: 26977)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 32824)
Acarya Nagarjuna (A Xà Lê Long Thọ) giữ một địa vị hầu như vô song trong hàng các bậc Thánh Phật giáo trình bày xiển dương lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni cho lợi lạc của thế giới.
(Xem: 31614)
Bố thí là hạnh đầu tiên trong sáu hạnh của Bồ Tát. Nguyên âm chữ Phạn là Dàna có nghĩa là sự cho, dịch sang tiếng Hán Việt là Bố thí.
(Xem: 32539)
Bát Chánh Đạo rất dễ nhớ, nhưng ý nghĩa của chúng thâm sâu và đòi hỏi một sự hiểu biết về nhiều lãnh vực liên quan trong giáo lý của Đức Phật.
(Xem: 12991)
Có nhiều loại giác ngộ, nhưng bản chất của giác ngộ thì chỉ có một, đó là phá vỡ bức tường ngăn ngại của vô minh để ánh sáng của tự tánh, Phật tánh được dịp bùng lên.
(Xem: 12125)
Lời dạy của đức Phậtpháp môn phương tiện, chứ không phải là chân lý. Vì vậy, học Phật là học pháp môn để tu tập, để chuyển hóa tâm thức, lời nói...
(Xem: 17461)
Không gian nhận thức bị giới hạn, vì thế nó hữu hạn. Khi bạn ngồi trong lớp học, không gian nhận thức bị bao bọc bởi các bức vách, nền nhà và trần nhà.
(Xem: 18689)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 12530)
Trong kinh Phật có dạy: Chúng ta phải cố gắng tu không thể chần chờ, bởi vì đâu có ai bảo đảm mình sống đến tám mươi tuổi mới chết. Trẻ có cái chết của trẻ...
(Xem: 11739)
Ý thứcvọng tưởng, là những mảnh vụn của tâm thể, là những áng mây đen che mờ mặt trăng tuệ giác, là những lượn sóng dấy động trên mặt biển chân tâm thanh tịnh...
(Xem: 13091)
Đức Phật dạy có năm sự khéo léo trong giao tiếp đem đến nhiều kết quả tốt đẹp. Theo ngài Xá Lợi Phất, không tuân theo năm cách xử sự này sẽ đem đến những hậu quả...
(Xem: 12175)
Trong đời sống chúng ta ai cũng có bản năng tự nhiên mong được hạnh phúc và thoát được đau khổ. Mong cầu được sung sướng là điều chính yếu của tất cả mọi người.
(Xem: 12466)
Khi ta cố chấp vào một sự việc thì tế bào thần kinh không có sự ráp nối dồi dào, khiến ta không nhận biết được những dữ kiện khác của sự thật. Ta trở thành người mù sờ voi...
(Xem: 11616)
Bằng Đạo Pháp, Phật mở ra cho ta một thế giới êm ả, an bìnhhạnh phúc, thay vì bước vào ta lại bước ra. Cái cánh cửa của thế giới đó ta không thấy...
(Xem: 11957)
Tôn chỉ Phật giáochí hướng cao siêu của một chân lý. Chí hướng của Phật là "Tự Giác Giác Tha", có nghĩa là tự mình giác ngộ, thức tỉnh trong giấc mộng vô minh...
(Xem: 10588)
Chúng ta tu Phật, nên biết nhân quả là một giáo lý căn bản của đạo Phật, không thể nào hiểu lơ là hay sơ sài, mà phải hiểu cho tường tận mới khỏi những ngờ vực.
(Xem: 10918)
Bởi con người mang sẵn tính tham lam, thói hèn nhát, nên khi muốn thỏa mãn sự mong cầu, muốn được bình an khi nguy hiểm, đều nảy sanh mê tín dị đoan.
(Xem: 28279)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 11151)
Ðạo Phật đã thấm sâu, đâm chồi, mọc rễ và lớn mạnh qua các lãnh vực văn hóa, gia đình, xã hội, nghệ thuật, kiến trúc... để hòa quyện thành nếp sống tâm linh tối thượng.
(Xem: 11343)
Sau khi thành đạo, Đức Phật đã phổ biến con đường giác ngộ cho nhiều người. Giác ngộvô cùng quí báu vì đó là con đường đưa đến sự giải thoát tối thượng của Niết bàn.
(Xem: 13564)
Tất cả mọi phương tiện đều để phục vụ mục tiêu chân lý của cuộc sống, như ngón tay để chỉ mặt trăng; ngón tay phương tiện để hướng đến mặt trăng chân lý.
(Xem: 11026)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm. Trong thời gian ấy, có lúc Phật giáo đưọc các vua chúa ủng hộ...
(Xem: 11419)
Ðạo Phật quan niệm mỗi cấp bực của sự sống đều mang một Thức tương ứng: cấp vi trùng vi khuẩn cũng có Thức của nó, cũng như mỗi tế bào, mỗi mô sinh vật cũng thế...
(Xem: 10887)
Giáo lý Phật giáo thiết lập trên nền tảng đau khổ của con người. Mặc dầu nhấn mạnh vào hiện hữu của sự khổ, nhưng Phật giáo không bao giờ là một giáo lý bi quan.
(Xem: 11166)
Chính thái độ hóa thần thông để giáo hóa chúng sanh đã làm nổi bật giá trị tâm lý hoằng phápĐức Phật của chúng ta đã dùng để hoằng hóa độ sanh.
(Xem: 26290)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
(Xem: 12363)
Hôm nay Đạo Phật đang chuyển đến một hướng mới, và có hàng ngàn người phương Tây đang cố gắng thực hành lời dạy của Đức Phật như một phương pháp sống.
(Xem: 14855)
Nghiên cứu Phật giáo từ quan điểm Hindu là một sự nghiên cứu của Ấn Độ giáo chứ không phải là Phật giáo. Thật sai lầm khi vay mượn để hỗ trợ quan điểm Hindu hiện đại...
(Xem: 11033)
Các Luận sư A-tì-đàm đã thấy rõ những nạn đề đặt ra cho nhận thức về quan hệ nhân quả, cho nên họ đưa ra một khung đề nghị là có năm loại kết quả khác nhau...
(Xem: 20304)
Tâm đại từ bi có hai tính cách: Tính cách cứu khổ thì thay thế chúng sinh mà chịu mọi khổ não cho họ; tính cách cho vui thì có thể bỏ hết tất cả phước lạc mà cho chúng sinh.
(Xem: 12335)
Trong lịch sử tư tưởng của Tánh Không luận, khởi đầu là sự tranh luận về điểm: có nên thừa nhận có một Bản ngã (Pdugala) hay không? Sự tranh luận này được khởi đầu...
(Xem: 11447)
Trước khi nói đến lộ trình của sự tạo nghiệp, cũng cần đề cập đến câu “nhất thiết duy tâm tạo” trong tư tưởng kinh Hoa Nghiêm của Phật giáo để thấy rõ bản chất của nghiệp...
(Xem: 10745)
Con người thoát khỏi tham lam, thù hận và si mê nhiều chừng nào thì hạnh phúc càng gia tăng chừng đó. Niết-bàn sẽ hiện hữu ngay từ bước khởi đầu và rồi thăng tiến...
(Xem: 23884)
Nguyên-thỉ hay cận-đại Phật-giáo vẫn là Phật-giáo, nghĩa là vẫn có mục-đích giải-thoát diệt khổ, vẫn tôn trọng sự sống và chân-lý, vẫn chủ trương từ-bi tế-độ.
(Xem: 11827)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch: Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp"...
(Xem: 12273)
Đức Phật tướng hảo trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất nhiều...
(Xem: 12800)
Là đóa hoa ưu tú, tinh ba của dân tộc, là bậc kiệt xuất anh tài của Phật Giáo Việt Nam, sử gia Lê Mạnh Thát đã khai quật những nguồn tài liệu vô cùng quý giá...
(Xem: 11033)
Phong trào phục hưng đạt được động lực khi một số người con của đất nước trở thành những Tăng sĩ Phật giáophục sinh lại sự quang vinh cổ thời của Tăng già.
(Xem: 38683)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 10516)
Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật...
(Xem: 12164)
Giữa thế kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ I sau công nguyên, hai thuật ngữ Đại thừa (Mahayana) và Tiểu thừa (Hinayana) xuất hiện trong Diệu pháp liên hoa kinh...
(Xem: 17679)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 24992)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 10527)
Những kẻ bị phiền não khổ đau, Phật giáo đã chỉ cho họ con đường dẫn đến hòa bình, và hạnh phúc vĩnh cữu cùng giúp họ giải quyết mọi vấn đề phiền toái của cuộc sống.
(Xem: 10726)
Giáo lý đạo Phật được xem là một nền giáo lý thực nghiệm, nhằm giải quyết những vấn đề về con người, đưa con người thoát khỏi những khổ đau trói buộc...
(Xem: 12025)
Trước tiên đề cập vấn đề trên, có lẽ cũng nên xác định lại niên đại đản sinh của thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) và niên đại nhập diệt của đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni).
(Xem: 11290)
Hỷ là một trong bốn vô lượng tâm của nhà Phật. Hỷ là hoan hỷ, vui vẻ. Lòng người Phật tử bao giờ cũng hoan hỷ, và sẵn sàng san sẻ niềm hoan hỷ đó cho mọi người.
(Xem: 11557)
Tam pháp ấn và lý Tứ đế thì tương ứng nhau: chư hành vô thườngKhổ đế; nhân sanh khổ ở nơi không biết chư pháp vô ngã, là Tập đế; Niết bàn tịch tĩnhDiệt đế...
(Xem: 14710)
Trong kinh Chuyển Pháp Luân ngay sau khi Phật giác ngộ và kinh Di Giáo ngay trước khi Phật Niết-bàn, Ngài khuyên các đệ tử của Ngài là không nên xem bói toán, xem quẻ...
(Xem: 21417)
Hoa sen (tên khoa học là Nelumbo Nucifera) là loại hoa mọc lên từ rễ củ nằm dưới lớp bùn đất ở dưới nước, hoa thường có màu trắng, hồng, có khi phơn phớt vàng, xanh...
(Xem: 9867)
Sự chết của con người là một giai đoạn trong chu trình biến thiên bất tận sinh-lão-bệnh-tử. Đầu tiên, tim ngừng đập rồi đến phổi, sau đó đến não; cuối cùng cơ thể phân hủy.
(Xem: 11242)
Trong giáo lý căn bản của đức Phật, vô minh (avijja) là điểm khởi đầu của vòng tròn mười hai nhân duyên (paticca-samuppada) đưa tới sinh tử, khổ đau...
(Xem: 27335)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 11164)
Chúng sanh bị đọa địa ngục, đó là chúng sanh tâm bị đọa lạc vào địa ngục tham, sân, si phiền não. Muốn giải phóng chúng sanh tâm, phải dùng tự tánh Địa Tạng của chính mình.
(Xem: 11820)
Nhà Phật có xác định sáu nguyên tắc để sống trong hòa hợp (Lục hòa). Vốn là để cho tăng già, nhưng nới rộng ra, đối với bất cứ một nhóm người nào cùng chung sống...
(Xem: 10995)
Chân dung toàn cảnh về Học phái Phật giáo cho chúng ta cái nhìn mà qua đó Phân kỳ Phật giáo có thể chia làm 3 thời kỳ, đó là Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Phát triển...
(Xem: 14283)
Đàn tràng chẩn tế cũng gọi là Trai đàn vì lấy sự trang nghiêm thanh tịnh làm gốc để nhất tâm hồi hướng cho cô hồn, ngạ quỷ được ân triêm công đức.
(Xem: 11456)
Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốt hay Phật xá lợi. Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng...
(Xem: 12619)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant