Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bốn Chân Lí Cao Qúy

28 Tháng Năm 201910:42(Xem: 3787)
Bốn Chân Lí Cao Qúy

BỐN CHÂN LÍ CAO QÚY
Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc
Bản Anh:The Four Noble Truths
Trích từ: Entering the Path of Wisdom (Nhập Đạo Lộ của Trí Tuệ Siêu Việt)

 

Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và vềđạo lộ. Có mười hai phương diện khi mỗi chân lí của bốn chân lí được nhân với ba:

Chân lí về khổ là bình chứa và các nội hàm của nó (thế giớichúng hữu tình).Chân lí về nguồn gốc là các hành nghiệp và các phiền não.Chân lí về diệt tậnlà tính đức của buông bỏ cả hai các hành nghiệp vàcác phiền não cùng với các hiệu quả của chúng.Chân lí vềđạo lộ là các đạo lộ và các địa.

1. Miêu tả tinh yếu của chúng: chân lí về khổ giống như một bệnh, chân lí về nguồn gốc giống như nguyên nhân của bệnh, chân lí về diệt tận giống như hồi phụccách tuyệt bệnh, và chân lí vềđạo lộ giống như thực hànhmột chữa trị dứt khoát đối với bệnh.

2.Miêu tả chức năng của chúng:chân lí về khổ, nó giống như một bệnh, là cái nên được nhận biết; chân lí về nguồn gốc, nó giống như nguyên nhân của bệnh, là cái nên được buông bỏ; chân lí vềdiệt tận, nó giống như hồi phục cách tuyệt với bệnh, là cái nên được thật chứng; và chân lí vềđạo lộ, nó giống như là thuốc, là cái nên được áp dụng trong đờisống của bạn.

3. Miêu tả về kết quả: Sau khi nhận biết chân lí về khổ, nó giống như một bệnh, nó không là một sựvật để nhận biết một lần nữa. Sau khi buông bỏ chân lí về nguồn gốc, nó giống như nguyên nhân của bệnh, nó không là một sự vật để buông bỏ một lần nữa.Sau khi thật chứng chân lí về diệt tận, nó giống nhưhồi phục cách tuyệt bệnh, nó không là một sự vật để thật chứng một lần nữa.Sau khi áp dụng trong đời sống của bạn chân lí vềđạo lộ, nó giống như một thuốc, nó không là một sự vật đểáp dụng một lần nữa.

Phương diện của hiện hữu có tính sinh tử luân hồi (trạng thái của các phiền não) là hai:sựđau khổ(hiệu quả của sinh tửluân hồi) và nguồn gốc (nguyên nhân của sinh tửluân hồi). Phương diện của tịch tĩnh là hai: sự diệt tận (hiệu quả của sinh tửluân hồi)vàđạo lộ (nguyên nhân của niết bàn).

Mười sáu phương diện / hành tướng của bốn chân lí:

Vô thường, khổ, không, và vô ngã.

Nhân (nguyên nhân), tập (nguồn gốc), sinh (sản phẩm/sở sinh), vàduyên.

Diệt, tĩnh, diệu, và li.

Đạo (đạo lộ), như (trí tuệ), hành (thành tựu), xuất (giải thoát).

Bốn phương diện của chân lí về khổ: Tất cả các pháp hữu vi (pháp do tạo tác) đều vô thường. Tất cả các hiện tượng có tính sinh tửluân hồi đều là khổ.Tất cả các hiện tượng đối ngoại đều rỗng thông (chân không diệu viên).Tất cả các hiện tượng đối nội đều không có một thực thể hữu ngã (vô ngã).

Bốn phương diện của chân lí về nguồn gốc: Chấp ngãnguyên nhân bởi vì nó là gốc rễ của tất cảđau khổ. Nó là nguồn gốc (tập)bởi vì từ nó mà tất cảđau khổcó tính sinh tửluân hồi sinh khởi.Nó là sản phẩm bởi vì sựđau khổ bức bách này tạo ra đau đớn tức thời.Nó là duyên hội bởi vìđến từtiến trình trải nghiệm đau khổ.

Bốn phương diện của diệt tận: Nó là diệt tận bởi vì tất cả các nguyên nhânhiệu quả của đau khổ chấm dứt. Nó là tịch tĩnh bởi vì tất cả các phiền não của ngu si đã bị hàng phục. Nó làdiệu hảo bởi vìnó làtính đức tối thắngnổi bật.Nó làviễn li bởi vì nó không bị hoàn nghịch và giải thoát quyết định cách tuyệt sinh tử luân hồi.

Bốn phương diện của chân lí vềđạo lộ: Nó làđạo lộ bởi vì nó tiến bộtăng thượng. Nó là trí tuệ siêu việt bởi vì nó phục vụ trong vai trò là thuốc giải cho các phiền não. Nó là thành tựu bởi vì nó là thành tựu xác thực.Nó là giải thoát bởi vì nódẫn đến xuất li liên tụcniết bàn.

Tối thượng Tantra nói:

Bệnh nên được nhận biếtnguyên nhân của bệnh nên được buông bỏ.

Trong khi đó thuốc nên được áp dụng để đạt trạng thái lành mạnh.

Cũng giống vậy, khổ, nguyên nhân của nó, sự diệt tận của nó, và đạo lộ,

Nên được nhận biết, buông bỏ, thật chứng, và áp dụng.

------------------------------------------------

Phụ bản

Mười sáu hành tướng (attributes: thuộc tính) của Tứ Đế

1. Khổ đế:

1.1 Khổ: quán thân này là khổ

1.2 Không: quán nhân duyên sinh vốn không

1.3 Vô thường: quán nhân duyên giả hợp mà thành nên sanh diệt vô thường

1.4 Vô ngã: quán nhân duyên giả hợp mà thành nên thể vô ngã.

2. Tập đế:

2.1 Tập: quán chiêu tập quả khổ

2.2 Nhân: quán nguyên nhân của quả khổ.

2.3 Sinh: quán khổ quả sinh tương tục còn sinh.

2.4 Duyên: quán các duyên thành quả khổ.

3. Diệt đế:

3.1. Diệt: quán các lậu (phiền não) đã hết, sinh tử đoạn diệt.

3.2 Tĩnh: quán ba độc đều không, tâm này không loạn nên tĩnh.

3.3 Diệu: quán ra khỏi ba cõi, không ưu hoạn nên diệu.

3.4 Li: quán tất cả tai hại đều đã xa lìa.

4. Đạo đế:

4.1 Đạo: quán pháp môn này là đạo đến niết bàn.

4.2 Như: đạo hợp với chánh lí nên như.

4.3 Hành: do đây mà đi đến niết bàn.

4.4 Xuất: do đạo này mà ra khỏi sinh tử.

[trích từ “Quán Lư. Nhập Phật Chỉ Nam”. Bản dịch Nhựt Chiếu, in 1997]

-------------

*Đạo lộ: (path): con đường tu tập từ lúc thức tỉnh cho tới giác ngộ .

*Ngu si (delusion); Vô minh ( ignorance)

*Si, Ngu si, Vô minh, Vô trí, Vô kiến, Phi hiện quán, Hôn muội, Hắc ám … đều đồng nghĩa (Ngài Vô Trước giảng trong Du già Sư Địa Luận)

** Chú thích: Bản dịch Việt dịch từ :Appendix 2. The Four Noble Truths của Jamyang Drakpa Rinpoche (1365-1448) – trích từ The Light of Wisdom. Root Text by Padmasambhava. Commentary by Jamgon Kongtrul the Great.Shamhala.1995

------------------

Jamyang Drakpa (1365-1448)

The Four Noble Truths

The four truths are the truth of suffering, of origin, of the cessation, and of the path. There are twelve aspects when the four truths are multiplied by three each:

The truth of suffering is the vessel and its contents (the world and the beings). The truth of origin is the karmas and disturbing emotions. The truth of cessation is the quality of having relinquished both the karmas and disturbing emotions along with their effects. The truth of the path is the paths and bhumis.

1. Describing their substance or essence: the truth of suffering, which is like a sickness, the truth of origin is like the cause of the sickness, the truth of cessation is like having recovered from the sickness, and the truth of the path is like following a cure for the sickness.

2. Describing their functions: the truth of suffering, which is like a sickness, is what should be acknowledged; the truth of origin, which is like the cause of the sickness, is what should be relinquished; the truth of cessation, which is like having recovered from the sickness, is what should be realized; and the truth of the path, which is like a medicine, is what should be applied in one’s being.

3.Describing the result: After having acknowledged the truth of suffering, which is like a sickness, it is not something to acknowledge again. After having relinquished the truth of origin, which is like the cause of the sickness, it is not something to relinquish again. After having realized the truth of cessation, which is like having recovered from the sickness, it is not something to realize again. After having applied in one’s being the truth of the path, which is like a medicine, it is not something to apply again.

The aspect of samsaric existence (the state of affliction) is two: the suffering (theeffect of samsara) and the origin (the cause of samsara). The aspect of peace and perfection is two: the cessation (the effect of nirvana) and the path (the cause of nirvana).

The sixteen aspects of the four truths:

Impermanence, suffering, emptiness, and selflessness.

Cause, origin, production, and condition.

Cessation, peace, excellence, and deliverance.

Path, knowledge, accomplishment, and liberating.

The four aspects of the truth of suffering: All composite things are impermanent. All samsaric phenomena are suffering. All outer phenomena are emptiness. All inner phenomena are devoid of a self-entity.

The four aspects of truth of origin: Ego-clinging is the cause because it is the root of all suffering. It is the origin because from it all samsaric suffering arises. It is production because this forceful suffering produces immediate pain. It is the connecting condition because of experiencing suffering.

The four aspects of cessation: It is cessation because all causes and effects of suffering have ceased. It is peace because all the disturbing emotions of delusion have subsidied. It is excellence because it is the most sublime and eminent quality. It is deliverance because it does not reverse and is definitive liberation from samsara.

The four aspects of the truth of the path: It is the path because it progresses higher and higher. It is knowledge because it serves as the antidote to the disturbing emotions. It is accomplishment because it is genuine achievement. It is liberating because it leads to perpetual emancipation and nirvana.

The Uttaratantra says:

The sickness should be acknowledged and the cause of the sickness relinquished.

While the medicine should be applied in order to attain the state of ease.

Likewise, the suffering, its cause, its cessation, and the path

Should be acknowledged, relinquished, realized, and applied.

--------------------------------------

Source: The Light of Wisdom. Root texts by Padmasambhava. Commentary by Jamgon Kongtrul the Great.Shambhala.1995.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 163)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 215)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 409)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 308)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 337)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 621)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 678)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 637)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 685)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 599)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 541)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 686)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 702)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 492)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 574)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 667)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 588)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 591)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 710)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 703)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 768)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 791)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 768)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 961)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 828)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1386)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 913)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1078)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1060)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 991)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 980)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1121)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1398)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1743)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 971)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1158)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 968)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 817)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 947)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 971)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1394)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1142)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1173)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 924)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1068)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1518)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1397)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1388)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 980)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1374)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1288)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1252)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant