Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tình Yêu Chân Chính Đã Giúp Con Người Hướng Thiện

06 Tháng Sáu 201909:00(Xem: 3315)
Tình Yêu Chân Chính Đã Giúp Con Người Hướng Thiện

TÌNH YÊU CHÂN CHÍNH ĐÃ GIÚP CON NGƯỜI HƯỚNG THIỆN
Thích Đạt Ma Phổ Giác

Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê, do đó biết bao câu chuyện xảy ra làm đau lòng nhân thế. Cảnh nhồi da xáo thịt làm mất đi tính người, con giết cha, mẹ giết con, vợ giết chồng, rồi kẻ tình địch giết hại lẫn nhau vì ghen tuông vô cớ. Con người ngày càng gây nhiều tội lỗi và làm khổ đau cho nhau vì cuộc sống không bao giờ như ý muốn. Thật ra tình dục không phải là chuyện xấu, nó luôn gắn liền với con người từ vô thủy kiếp đến nay. Đã là chúng sinh thì phải ăn, phải ngủ, đã đưa vào thì phải thải ra và chúng ta luôn có trách nhiệm duy trì giống nòi nhân loại. Con ngườimột sinh vật cao cấp hơn hẳn các loài khác về mọi phương diện, nếu biết suy nghĩ và hành động hướng thiện sẽ giúp ích cho nhân loại, ngược lại sẽ gây đau khổ cho nhau. Thế giới loài người luôn ở vị trí chủ động, nếu ác thì cùng hung cực ác, nếu thiện thì không loài nào bằng. Do đó, đứng giữa dòng đời nghiệt ngã với muôn vàn sóng gió, tốt xấu lẫn lộn đang xen vào nhau, tùy theo nhận thức mỗi người mà có tình cảm yêu thương, gắn bó với nhau hay kết nên ân oán, hận thù. Chính vì thế mà chúng ta cứ sống loanh quanh, lẩn quẩn trong cái vòng ấy, nếu đi theo chiều hướng tốt đẹp sẽ dẫn con người đi trên con đường hướng thiện, bằng ngược lại sẽ đi vào chỗ tối tăm. Thế gian là một trường đời hỗn hợp, ai biết tu nhân tích đức thì sống an vui hạnh phúc, ai không biết thì cam chịu khổ đau. Hạnh phúc hay khổ đau đều do mình tạo lấy, không ai có quyền ban phước giáng họa mà chính mình là chủ nhân ông của bao điều họa phúc được tạo ra từ thân-miệng-ý mỗi người. Mình làm phước sẽ được hưởng phước báu, mình làm ác sẽ phải chịu khổ đau, đó là sự thật.

Nguyên nhân chính đưa con người vào vòng tội lỗi làm khổ đau cho nhau là do không tin sâu nhân quả, vì biết mà cố phạm, và bị nghiệp thức che đậy. Ý thức được khổ đau do sự giết hại gây ra, mỗi người chúng ta giữ giới không giết người và hạn chế tối đa việc giết hại các loài vật từ nhỏ đến lớn. Làm bậc cha mẹ ta phải giáo dục con cái từ lúc ấu thơ, khi thấy chúng tự tay giết hại những con vật nhỏ như bướm, kiến, ong do vô tình hay cố ý thì cha mẹ phải tìm cách ngăn cản, la rầy, nói rõ cho chúng biết tác hại của nó; nếu không lớn lên các em có thể mạnh tay hơn mà giết những con vật lớn và cuối cùng có thể giết người khi không làm chủ bản thân. Nếu chúng ta ai cũng y theo lời Phật dạygiữ gìn giới không giết hại thì thế giới sẽ không còn chiến tranh, binh đao, sóng thần, động đất, không sợ khủng bố trả thù, không bị bệnh tật và chết yểu, mọi người sẽ sống an vui, hạnh phúc.

Trộm là lén lấy không cho người biết, cướp là công khai giành giựt lấy. Trộm cướp là lấy những vật sở hữu của người khác như tiền bạc, ngọc ngà châu báu mà không được sự cho phép của chủ nhân. Tóm lại, cái gì do lòng tham thúc đẩy nên lấy của người khác một cách bất chính đều là trộm cướp. Bao nhiêu vụ án xảy ra cũng chỉ vì tình, vì tiền, dẫn đến cướp của, giết người, hãm hại lẫn nhau. Kẻ chết đã an phận, người sống phải lãnh chịu những hậu quả đau thương đến tột cùng. Có nhiều vụ án bị cáo và bị hại đều là người thân, như vụ con giết cha đã được đăng trên báo. Đứa con từng chứng kiến cha mình hành hạ, đánh đập mẹ mỗi khi say rượu. Sự bạo hành đó thường xuyên xảy ra làm đứa con cảm thấy xót xa, đau lòng, nỗi uất ức, căm hờn người cha đã đến tột đỉnh. Một hôm, chứng kiến cảnh cha hành hạ mẹ dã man, không kiềm chế được cơn giận, đứa con giết cha bằng cách cho điện giựt. Vụ việc này bị hại là cha mà bị cáo là con, dự phiên tòa là bà nội và người mẹ. Thật đau lòng và xót xa làm sao! Nếu người cha đó sống có nhân cách đạo đức thì đâu có chuyện gì xảy ra. Xã hội ngày nay nạn bạo hành gia đình là một vấn đề nhức nhối, số vụ ly hôn càng ngày càng tăng tạo ra nỗi khổ, niềm đau cho nhiều người. Con người sống với nhau không có tình yêu thương chân thật do sự chấp ngã của bản thân nên tham lam, ích kỷ, ganh ghét, thù hằn, dẫn đến giết hại lẫn nhau.

Phạm văn Bình là dân chơi đất Hà Thành được cha mẹ nuông chìu từ nhỏ nên đã kết bè, kết bạn với đám người hư hỏng chuyên móc túi và trộm cướp. Chưa đầy mười tuổi Bình được đưa vào trại thiếu niên để giáo dục, sau được tha về nhưng chứng nào tật nấy, Bình cấu kết nhiều tay anh chị, lập băng nhóm tổ chức cướp giựt có vũ khí và nổi tiếng từ đó với cái tên Bình bò; nhưng dù xưng hùng, xưng bá cỡ nào cũng không thoát được bàn tay chính nghĩa, cuối cùng anh bị tóm cổ trong một phi vụ cướp giựt. Sau 7 năm ngồi tù bóc lịch, tưởng chừng anh đã thay tâm đổi tánh, nào ngờ anh còn tổ chức trốn trại, cướp vũ khí của cán bộ quản giáo và bắn một công an bị thương. Trong thời gian trốn lệnh truy nã, Bình bò len lỏi trên những chuyến xe khách Bắc Nam sống bằng nghề móc túi và quen được cô gái bán hàng nước. Anh ta phải nói dối mình tên Tuấn, là tài xế lái xe. Sau nhiều lần trò chuyện Bình đã lấy được lòng cô với những món quà đáng giá. Con tim của hai người bắt đầu rung động mãnh liệt và tình cảm đã trở nên sâu đậm. Tuy nhiên, trốn chạy thế nào cũng có ngày phải ra ánh sáng, các trinh sát đã tìm ra anh và biết được hai người đang yêu nhau tha thiết. Huyền là cô thôn nữ hiền thục, khi biết người tình là tướng cướp trốn lệnh truy nã thoạt đầu cô rất bàng hoàng sửng sốt, sau vì chữ tình cô không nỡ bỏ anh. Cô nói với cha mẹ nếu không lấy được anh thì sẽ ở giá suốt đời. Các trinh sát nhờ Huyền động viên Bình ra đầu thú để hưởng sự khoan hồng. Lúc trước hai ba ngày Bình chuẩn bị vượt biên thì sự tha thiết cùng lời hứa hẹn chân thành của Huyền đã làm Bình tỉnh ngộ. Hai người được làm đám cưới trước khi Bình vào tù và Huyền còn rước đứa con riêng của Bình về nuôi để chồng an tâm. Hàng tháng cô đã nhín ăn bớt mặc để tích cóp tiền đến thăm chồng, nhờ vậy Bình yên lòng cố gắng học tập, cải tạo tốt để mau trở về sum họp cùng cô. Ước mơ của anh đã trở thành sự thật và Bình đã được đặc xá trước thời hạn 6 năm. Để hỗ trợ giúp cho chàng rể thật sự hoàn lương, cha mẹ vợ đã cho miếng đất để hai vợ chồng cất nhà ở và sau đó còn cho mượn sổ đỏ vay vốn làm ăn. Hiện giờ Bình là giám đốc một doanh nghiệp ăn nên làm ra rất có uy tín. Nhờ tình yêu thương chân thành của người vợ đã hết lòng hy sinh cùng sự hỗ trợ của cha mẹ vợ đã giúp Bình hoàn lương thật sự, hiện giờ anh sống rất hạnh phúc bên vợ con.

Phật dạy không gì cao quý và khó khăn hơn chặng đường vượt qua cạm bẫy cuộc đời, đó là tự chiến thắng chính mình. Chiến thắng chính mình tức là chiến thắng thói quen đã làm đau khổ nhiều người do tham lam, sân hận, si mê sai sử. Do thói quen nhiều đời và hiện tại giao du với bạn bè xấu nên ngay từ nhỏ Bình đã dấn thân vào con đường tội lỗi. Anh đã chiến thắng chính mình nhờ tình yêu chân thành của người vợ hiền thục giúp anh hoàn lương bằng những việc làm thiết thực: đem con riêng của Bình về nuôi, chấp nhận làm đám cưới trước khi anh trở vào tù,  thường xuyên thăm anh để động viên, hun đúc tinh thần cho anh bền chí học tập, cải tạo tốt. Động lực thứ hai giúp anh là sự khoan hồng, bao dungđộ lượng của quý ban chính quyền các cấp; thứ ba nhờ sự hỗ trợ, giúp đỡ của cha mẹ vợ đã cho anh miếng đất cất nhà và còn cho mượn sổ đỏ để vay vốn làm ăn; cùng với ý chí, quyết tâm cao độ của chính mình mà anh đã vượt qua lỗi lầm xưa.

Phật dạy người cư sĩ tại gia có quyền lấy vợ lấy chồng, nhưng phải thủy chung một chồng một vợ, không được dan díu và quan hệ bất chính với nhiều người. Ngoại tìnhnguyên nhân dẫn đến ghen tuông, ích kỷ, phá hoại hạnh phúc gia đình người khác. Trong tình yêu ghen tuông luôn gắn liền với ích kỷ và nó là trạng thái tâm lý không thể tách rời nhau. Bao nhiêu vụ án xảy ra làm kinh hoàng thiên hạ với những cái chết thật đáng tiếc và vô lý làm sao, chỉ vì ghen tuông mù quáng. Bởi chúng ta yêu thương vì muốn lợi dụng nhau mà không có tình yêu chân thật, dẫn đến hẹp hòi, không độ lượng. Trong tình ái, do bảo vệ “cái ta” ích kỷ hoặc ghen tuông vô cớ nên dễ làm con người mù quáng, gây nhiều đau khổ cho nhau. Tình yêu bản chất vốn không xấu xa, tội lỗi, ai cũng muốn mình được an vui, hạnh phúc trong đời sống lứa đôi, nhưng vì chúng ta không biết cảm thôngtha thứ, bao dungđộ lượng. Không nói dối để lừa gạt người thì cuộc sống sẽ thoải mái, không còn lo toan, sợ hãi và luôn nói lời chân thật nên được nhiều người quý kính. Không uống rượu và hút chích xì ke, ma túy thì con người sáng suốt, thông minh, không bao giờ làm điều xằng bậy như trộm cướp, giết người hay lường gạt người khác. Một xã hội nếu không có nền tảng giáo dục tâm linh dễ khiến con người cuồng si trong tham muốn nên con giết cha, vợ hại chồng, mẹ giết con, anh giết em và vô số sự giết hại khác từ chỗ chấp ngã mà ra.

Người con Phật nhờ tin sâu nhân quả, quyết tâm học và ứng dụng theo lời Phật dạy, gìn giữ 5 điều đạo đức nên ít rơi vào vòng lao lý, tù tội. Xã hội ngày nay nếu biết đưa 5 giới nhà Phật vào chương trình giáo dục học đường chính thức để mọi người cùng nhau học hiểu và áp dụng vào đời sống hằng ngày thì tình trạng cướp của, giết người, làm những điều phi pháp sẽ giảm thiểu tối đa. Nhờ sợ tội và biết làm phước nên mọi người sống thương yêu, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trên tinh thần vô ngã, vị tha. Cuộc sống này có vô vàn sự cám dỗ như sắc đẹp, tiền tài, danh vọng, ăn ngon, mặc đẹp, ngủ kỹ…; chúng luôn thôi thúc, mời gọi chúng ta nên con người dễ sa ngã trước sóng gió cuộc đời. Hiểu biết chân chánh, nhận thức sáng suốt, cố gắng hành trì, sống đúng lời Phật dạy để vượt qua nỗi khổ niềm đau, sống an vui hạnh phúctâm nguyện của những người con Phật đang tiến bước trên con đường giác ngộgiải thoát. Một chút trải nghiệm trong cuộc đời xin chân thành chia sẻ cùng chư huynh đệ pháp lữ gần xa, nguyện được kết duyên sâu cùng với tất cả mọi người.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 144)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 195)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 217)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 283)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 195)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 245)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 304)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 266)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 297)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 373)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 606)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 464)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 482)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 574)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 752)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 833)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 854)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 840)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 731)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 710)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 714)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 813)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 833)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 939)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 715)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 613)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 708)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 824)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 711)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 707)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 823)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 850)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 825)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 863)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 893)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 886)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1077)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 952)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1662)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1066)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1210)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 955)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1211)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1115)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1123)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1277)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1558)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2032)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1096)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1352)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1097)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 947)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1063)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1097)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1533)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1286)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1289)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1022)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1181)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant