Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tình Yêu Chân Chính Đã Giúp Con Người Hướng Thiện

06 Tháng Sáu 201909:00(Xem: 3299)
Tình Yêu Chân Chính Đã Giúp Con Người Hướng Thiện

TÌNH YÊU CHÂN CHÍNH ĐÃ GIÚP CON NGƯỜI HƯỚNG THIỆN
Thích Đạt Ma Phổ Giác

Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê, do đó biết bao câu chuyện xảy ra làm đau lòng nhân thế. Cảnh nhồi da xáo thịt làm mất đi tính người, con giết cha, mẹ giết con, vợ giết chồng, rồi kẻ tình địch giết hại lẫn nhau vì ghen tuông vô cớ. Con người ngày càng gây nhiều tội lỗi và làm khổ đau cho nhau vì cuộc sống không bao giờ như ý muốn. Thật ra tình dục không phải là chuyện xấu, nó luôn gắn liền với con người từ vô thủy kiếp đến nay. Đã là chúng sinh thì phải ăn, phải ngủ, đã đưa vào thì phải thải ra và chúng ta luôn có trách nhiệm duy trì giống nòi nhân loại. Con ngườimột sinh vật cao cấp hơn hẳn các loài khác về mọi phương diện, nếu biết suy nghĩ và hành động hướng thiện sẽ giúp ích cho nhân loại, ngược lại sẽ gây đau khổ cho nhau. Thế giới loài người luôn ở vị trí chủ động, nếu ác thì cùng hung cực ác, nếu thiện thì không loài nào bằng. Do đó, đứng giữa dòng đời nghiệt ngã với muôn vàn sóng gió, tốt xấu lẫn lộn đang xen vào nhau, tùy theo nhận thức mỗi người mà có tình cảm yêu thương, gắn bó với nhau hay kết nên ân oán, hận thù. Chính vì thế mà chúng ta cứ sống loanh quanh, lẩn quẩn trong cái vòng ấy, nếu đi theo chiều hướng tốt đẹp sẽ dẫn con người đi trên con đường hướng thiện, bằng ngược lại sẽ đi vào chỗ tối tăm. Thế gian là một trường đời hỗn hợp, ai biết tu nhân tích đức thì sống an vui hạnh phúc, ai không biết thì cam chịu khổ đau. Hạnh phúc hay khổ đau đều do mình tạo lấy, không ai có quyền ban phước giáng họa mà chính mình là chủ nhân ông của bao điều họa phúc được tạo ra từ thân-miệng-ý mỗi người. Mình làm phước sẽ được hưởng phước báu, mình làm ác sẽ phải chịu khổ đau, đó là sự thật.

Nguyên nhân chính đưa con người vào vòng tội lỗi làm khổ đau cho nhau là do không tin sâu nhân quả, vì biết mà cố phạm, và bị nghiệp thức che đậy. Ý thức được khổ đau do sự giết hại gây ra, mỗi người chúng ta giữ giới không giết người và hạn chế tối đa việc giết hại các loài vật từ nhỏ đến lớn. Làm bậc cha mẹ ta phải giáo dục con cái từ lúc ấu thơ, khi thấy chúng tự tay giết hại những con vật nhỏ như bướm, kiến, ong do vô tình hay cố ý thì cha mẹ phải tìm cách ngăn cản, la rầy, nói rõ cho chúng biết tác hại của nó; nếu không lớn lên các em có thể mạnh tay hơn mà giết những con vật lớn và cuối cùng có thể giết người khi không làm chủ bản thân. Nếu chúng ta ai cũng y theo lời Phật dạygiữ gìn giới không giết hại thì thế giới sẽ không còn chiến tranh, binh đao, sóng thần, động đất, không sợ khủng bố trả thù, không bị bệnh tật và chết yểu, mọi người sẽ sống an vui, hạnh phúc.

Trộm là lén lấy không cho người biết, cướp là công khai giành giựt lấy. Trộm cướp là lấy những vật sở hữu của người khác như tiền bạc, ngọc ngà châu báu mà không được sự cho phép của chủ nhân. Tóm lại, cái gì do lòng tham thúc đẩy nên lấy của người khác một cách bất chính đều là trộm cướp. Bao nhiêu vụ án xảy ra cũng chỉ vì tình, vì tiền, dẫn đến cướp của, giết người, hãm hại lẫn nhau. Kẻ chết đã an phận, người sống phải lãnh chịu những hậu quả đau thương đến tột cùng. Có nhiều vụ án bị cáo và bị hại đều là người thân, như vụ con giết cha đã được đăng trên báo. Đứa con từng chứng kiến cha mình hành hạ, đánh đập mẹ mỗi khi say rượu. Sự bạo hành đó thường xuyên xảy ra làm đứa con cảm thấy xót xa, đau lòng, nỗi uất ức, căm hờn người cha đã đến tột đỉnh. Một hôm, chứng kiến cảnh cha hành hạ mẹ dã man, không kiềm chế được cơn giận, đứa con giết cha bằng cách cho điện giựt. Vụ việc này bị hại là cha mà bị cáo là con, dự phiên tòa là bà nội và người mẹ. Thật đau lòng và xót xa làm sao! Nếu người cha đó sống có nhân cách đạo đức thì đâu có chuyện gì xảy ra. Xã hội ngày nay nạn bạo hành gia đình là một vấn đề nhức nhối, số vụ ly hôn càng ngày càng tăng tạo ra nỗi khổ, niềm đau cho nhiều người. Con người sống với nhau không có tình yêu thương chân thật do sự chấp ngã của bản thân nên tham lam, ích kỷ, ganh ghét, thù hằn, dẫn đến giết hại lẫn nhau.

Phạm văn Bình là dân chơi đất Hà Thành được cha mẹ nuông chìu từ nhỏ nên đã kết bè, kết bạn với đám người hư hỏng chuyên móc túi và trộm cướp. Chưa đầy mười tuổi Bình được đưa vào trại thiếu niên để giáo dục, sau được tha về nhưng chứng nào tật nấy, Bình cấu kết nhiều tay anh chị, lập băng nhóm tổ chức cướp giựt có vũ khí và nổi tiếng từ đó với cái tên Bình bò; nhưng dù xưng hùng, xưng bá cỡ nào cũng không thoát được bàn tay chính nghĩa, cuối cùng anh bị tóm cổ trong một phi vụ cướp giựt. Sau 7 năm ngồi tù bóc lịch, tưởng chừng anh đã thay tâm đổi tánh, nào ngờ anh còn tổ chức trốn trại, cướp vũ khí của cán bộ quản giáo và bắn một công an bị thương. Trong thời gian trốn lệnh truy nã, Bình bò len lỏi trên những chuyến xe khách Bắc Nam sống bằng nghề móc túi và quen được cô gái bán hàng nước. Anh ta phải nói dối mình tên Tuấn, là tài xế lái xe. Sau nhiều lần trò chuyện Bình đã lấy được lòng cô với những món quà đáng giá. Con tim của hai người bắt đầu rung động mãnh liệt và tình cảm đã trở nên sâu đậm. Tuy nhiên, trốn chạy thế nào cũng có ngày phải ra ánh sáng, các trinh sát đã tìm ra anh và biết được hai người đang yêu nhau tha thiết. Huyền là cô thôn nữ hiền thục, khi biết người tình là tướng cướp trốn lệnh truy nã thoạt đầu cô rất bàng hoàng sửng sốt, sau vì chữ tình cô không nỡ bỏ anh. Cô nói với cha mẹ nếu không lấy được anh thì sẽ ở giá suốt đời. Các trinh sát nhờ Huyền động viên Bình ra đầu thú để hưởng sự khoan hồng. Lúc trước hai ba ngày Bình chuẩn bị vượt biên thì sự tha thiết cùng lời hứa hẹn chân thành của Huyền đã làm Bình tỉnh ngộ. Hai người được làm đám cưới trước khi Bình vào tù và Huyền còn rước đứa con riêng của Bình về nuôi để chồng an tâm. Hàng tháng cô đã nhín ăn bớt mặc để tích cóp tiền đến thăm chồng, nhờ vậy Bình yên lòng cố gắng học tập, cải tạo tốt để mau trở về sum họp cùng cô. Ước mơ của anh đã trở thành sự thật và Bình đã được đặc xá trước thời hạn 6 năm. Để hỗ trợ giúp cho chàng rể thật sự hoàn lương, cha mẹ vợ đã cho miếng đất để hai vợ chồng cất nhà ở và sau đó còn cho mượn sổ đỏ vay vốn làm ăn. Hiện giờ Bình là giám đốc một doanh nghiệp ăn nên làm ra rất có uy tín. Nhờ tình yêu thương chân thành của người vợ đã hết lòng hy sinh cùng sự hỗ trợ của cha mẹ vợ đã giúp Bình hoàn lương thật sự, hiện giờ anh sống rất hạnh phúc bên vợ con.

Phật dạy không gì cao quý và khó khăn hơn chặng đường vượt qua cạm bẫy cuộc đời, đó là tự chiến thắng chính mình. Chiến thắng chính mình tức là chiến thắng thói quen đã làm đau khổ nhiều người do tham lam, sân hận, si mê sai sử. Do thói quen nhiều đời và hiện tại giao du với bạn bè xấu nên ngay từ nhỏ Bình đã dấn thân vào con đường tội lỗi. Anh đã chiến thắng chính mình nhờ tình yêu chân thành của người vợ hiền thục giúp anh hoàn lương bằng những việc làm thiết thực: đem con riêng của Bình về nuôi, chấp nhận làm đám cưới trước khi anh trở vào tù,  thường xuyên thăm anh để động viên, hun đúc tinh thần cho anh bền chí học tập, cải tạo tốt. Động lực thứ hai giúp anh là sự khoan hồng, bao dungđộ lượng của quý ban chính quyền các cấp; thứ ba nhờ sự hỗ trợ, giúp đỡ của cha mẹ vợ đã cho anh miếng đất cất nhà và còn cho mượn sổ đỏ để vay vốn làm ăn; cùng với ý chí, quyết tâm cao độ của chính mình mà anh đã vượt qua lỗi lầm xưa.

Phật dạy người cư sĩ tại gia có quyền lấy vợ lấy chồng, nhưng phải thủy chung một chồng một vợ, không được dan díu và quan hệ bất chính với nhiều người. Ngoại tìnhnguyên nhân dẫn đến ghen tuông, ích kỷ, phá hoại hạnh phúc gia đình người khác. Trong tình yêu ghen tuông luôn gắn liền với ích kỷ và nó là trạng thái tâm lý không thể tách rời nhau. Bao nhiêu vụ án xảy ra làm kinh hoàng thiên hạ với những cái chết thật đáng tiếc và vô lý làm sao, chỉ vì ghen tuông mù quáng. Bởi chúng ta yêu thương vì muốn lợi dụng nhau mà không có tình yêu chân thật, dẫn đến hẹp hòi, không độ lượng. Trong tình ái, do bảo vệ “cái ta” ích kỷ hoặc ghen tuông vô cớ nên dễ làm con người mù quáng, gây nhiều đau khổ cho nhau. Tình yêu bản chất vốn không xấu xa, tội lỗi, ai cũng muốn mình được an vui, hạnh phúc trong đời sống lứa đôi, nhưng vì chúng ta không biết cảm thôngtha thứ, bao dungđộ lượng. Không nói dối để lừa gạt người thì cuộc sống sẽ thoải mái, không còn lo toan, sợ hãi và luôn nói lời chân thật nên được nhiều người quý kính. Không uống rượu và hút chích xì ke, ma túy thì con người sáng suốt, thông minh, không bao giờ làm điều xằng bậy như trộm cướp, giết người hay lường gạt người khác. Một xã hội nếu không có nền tảng giáo dục tâm linh dễ khiến con người cuồng si trong tham muốn nên con giết cha, vợ hại chồng, mẹ giết con, anh giết em và vô số sự giết hại khác từ chỗ chấp ngã mà ra.

Người con Phật nhờ tin sâu nhân quả, quyết tâm học và ứng dụng theo lời Phật dạy, gìn giữ 5 điều đạo đức nên ít rơi vào vòng lao lý, tù tội. Xã hội ngày nay nếu biết đưa 5 giới nhà Phật vào chương trình giáo dục học đường chính thức để mọi người cùng nhau học hiểu và áp dụng vào đời sống hằng ngày thì tình trạng cướp của, giết người, làm những điều phi pháp sẽ giảm thiểu tối đa. Nhờ sợ tội và biết làm phước nên mọi người sống thương yêu, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trên tinh thần vô ngã, vị tha. Cuộc sống này có vô vàn sự cám dỗ như sắc đẹp, tiền tài, danh vọng, ăn ngon, mặc đẹp, ngủ kỹ…; chúng luôn thôi thúc, mời gọi chúng ta nên con người dễ sa ngã trước sóng gió cuộc đời. Hiểu biết chân chánh, nhận thức sáng suốt, cố gắng hành trì, sống đúng lời Phật dạy để vượt qua nỗi khổ niềm đau, sống an vui hạnh phúctâm nguyện của những người con Phật đang tiến bước trên con đường giác ngộgiải thoát. Một chút trải nghiệm trong cuộc đời xin chân thành chia sẻ cùng chư huynh đệ pháp lữ gần xa, nguyện được kết duyên sâu cùng với tất cả mọi người.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1626)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1615)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1013)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1488)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1470)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1654)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1916)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1499)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1333)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1357)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1524)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1119)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1242)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1247)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1677)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1629)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 2920)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1803)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1356)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1215)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1267)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1389)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1306)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1906)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1658)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1874)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1803)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2377)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1776)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2105)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2175)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2285)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1833)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1965)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2011)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1924)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2569)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1930)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1860)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1933)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1877)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2136)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2285)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1951)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2063)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1843)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1886)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2394)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2311)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 3935)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2457)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3161)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2453)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2036)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1788)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3289)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2330)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3008)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2685)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant