Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Pháp Ấn

28 Tháng Sáu 201910:34(Xem: 5140)
Pháp Ấn
PHÁP ẤN

Thích Nguyên Hùng

vo thuong



Pháp ấn
, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn. Ấn còn có nghĩa là chân thật, bất động, bất biến, như ấn tín của quốc vương. Pháp ấn là dấu ấn của chánh pháp, là dấu hiệu đặc trưng để nhận biết Phật pháp, nhưng cũng có thể là chỉ cho giáo pháp cô đọng, tinh yếu, cốt tuỷ, tức là pháp yếu. Sau này, nhiều trăm năm sau Phật niết-bàn, thuật ngữ Pháp ấn được dùng để chỉ cho kinh điển do Phật thuyết, ngược lại, kinh điển nào có nội dung tư tưởng trái ngược với Pháp ấn thì được coi là kinh điển không do Phật thuyết.
Những bản kinh sau đây sẽ cho chúng ta thấy khái niệm pháp ấn được đức Thế tôn dùng để giảng dạy những giáo lý nhiệm mầu, thâm sâu; những pháp hành căn bản để thành tựu giải thoát.
1. Thánh pháp ấn (Ārya-dharma-mudra)
Thánh pháp ấn là khuôn dấu về chánh pháp của bậc Thánh, pháp ấn của bậc Thánh, hay pháp này chính là pháp hành, pháp yếu căn bản đi đến thành tựu Thánh quả. Kinh ghi: “Này các tỳ-kheo, thế nào là Thánh pháp ấn? Thánh pháp ấn này nếu được tu tập sẽ đưa đến tri kiến thanh tịnh. Giả sử vị tỳ-kheo ở chỗ nhàn cư, hoặc ngồi dưới gốc cây, chốn không nhàn, quán sát nhận biết rõ sắc là vô thường, thấy sắc vốn không có. Đã nhận biếtvô thường, hiểu rõ đến chỗ Không, Vô đều là hình dung biến hóa nhanh chóng, vô ngã, vô dục, cho nên tâm liền ngưng nghỉ, tự nhiên thanh tịnhđược giải thoát.”[1]
Thánh pháp ấn ở đây được nhận diệnvô thường, không, vô ngã và niết-bàn.
2. Tự tánh không
Pháp ấn là pháp của Phật, siêu việt, không thể nghĩ bàn, tri kiến không thể đạt tới. Kinh ghi: “Tự Tánh Không, không có sở hữu, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, thoát ly mọi tri kiến. Tại sao? Vì Tánh Không, không có xứ sở, không có sắc tướng, không có tưởng, nó vốn không sanh, không phải chỗ mà tri kiếnthể đạt tới, thoát ly mọi vướng mắc; vì do thoát ly mọi vướng mắc, nên hết thảy pháp nó đều dung nhiếp, an trú tri kiến bình đẳng, tức là tri kiến chân thực. Tỳ-kheo nên biết, Tánh Không là như vậy, các pháp cũng là như vậy, đó gọi là Pháp ấn.”[2]
Ở đây, Tánh KhôngPháp ấn.
3. Tam giải thoát môn
Có khi Đức Phật nói ba cánh cửa giải thoátPháp ấn. Kinh ghi: “Pháp ấn này chính là ba cửa giải thoát, là pháp căn bản của chư Phật, là đôi mắt của chư Phật, đó là chỗ quy thú của chư Phật.”[3]
Rồi Đức Phật giải thích, nếu ai tu tập, quán sát đúng như thật rằng: “Sắc là khổ, là không, là vô thường, nên sinh khởi sự nhàm chánthoát ly chúng, an trú tri kiến bình đẳng. Cũng giống như thế, quán sát: Thọ, tưởng, hành và thức, là khổ, là không, nên sinh khởi sự nhàm chánthoát ly chúng, an trú tri kiến bình đẳng.
“Này các Tỳ-kheo! Các uẩn vốn Không tự tánh, do tâm mà có sinh, khi tâm pháp diệt tận rồi, thì các uẩn không còn tác khởi.
“Thấu suốt rõ ràng như thế, tức là trực tiếp giải thoát, đã trực tiếp giải thoát rồi, thì thoát ly mọi tri kiến. Đây gọi là Không giải thoát môn.
“Lại nữa, an trụ ở trong tam-muội, quán chiếu các sắc cảnh, hết thảy chúng đều diệt tận, thoát ly mọi ấn tượng. Cũng vậy, với thanh, hương, vị, xúc và pháp, cũng đều diệt tận, thoát ly mọi ấn tượng; quán sát như vậy, gọi là Vô tưởng giải thoát môn. Vào cửa giải thoát này rồi, liền thành tựu được tri kiến thanh tịnh. Do vì có sự thanh tịnh đó, nên tham, sân và si hết thảy chúng đều diệt tận. Những thứ ấy, đã diệt tận rồi, thì liền an trú tri kiến bình đẳng.
“Đã an trú vào tri kiến này rồi, tức là thoát ly kiến về ngã cùng với kiến về ngã sở, tức liền thấu suốt rõ ràng mọi kiến, không sở sinh, không có chỗ y chỉ.
“Lại nữa, đã thoát ly kiến về ngã rồi, tức không còn kiến, văn, giác và tri.
Tại sao vậy? Vì do nhân duyên, mà các thức sinh khởi, thì tức nhân duyên đó, cùng với thức được sinh ra, hết thảy chúng đều vô thường. Do vì nó vô thường, cho nên thức bất khả đắc. Thức uẩn đã không, thì không có chỗ tạo tác. Gọi là Vô tác giải thoát môn.”[4]
4. Bốn pháp thù thắng
Một thời, Đức Thế tôn du hoá ở cung Hải long vương cùng với 1250 vị tỳ-kheo, và số đông các hàng đại bồ-tát. Bấy giờ, Long vương Sāgara bạch với Thế tôn: “Kính bạch Thế tôn! Có pháp gì mà người thọ trì chút ít lại được phước nhiều không?”
Khi ấy, Phật bảo Hải long vương: “Có bốn pháp thù thắng, nếu ai thọ trì, đọc tụng, hiểu nghĩa, thì dụng công tuy ít mà được phước rất nhiều, so với công đức của người đọc tụng tám vạn bốn ngàn pháp tạng không khác. Bốn pháp đó là gì? Là thường tư  duy: các hành vô thường, tất cả đều khổ, các pháp vô ngã và chỉ có niết-bàn là an lạc. Long vương nên biết, đây là bốn pháp thù thắng, hàng đại bồ-tát Vô tận pháp trí, sớm chứng vô sanh, mau đến Viên tịch, là vì họ thường tư duy, nghiền ngẫm bốn pháp này!”[5]
Vô thường, khổ, vô ngã, niết-bàn được cho là bốn pháp ấn!
5. Ba pháp ấn
Một thời, sau khi Thế Tôn vào niết-bàn không bao lâu, trưởng lão Channo đi khắp nơi để thỉnh cầu các tỳ-kheo chỉ dạy, rằng “xin chỉ dạy tôi, nói pháp cho tôi, để cho tôi biết pháp, thấy pháp và tôi có thể như vậy mà quán sát pháp.”
Bấy giờ, các tỳ-kheo nói với Channo: “Sắc là vô thường. Thọ, tưởng, hành, thức là vô thườngTất cả các hành đều vô thường. Tất cả các pháp đều vô ngã. Niết-bàn là tịch diệt.” [6]
5.1. Chư hành vô thường (sabbe saṅkhārā aniccā hay ani-tyā sarvasaṃskārāḥ).
Chữ ‘hành’ ở đây chỉ cho tất cả mọi hiện tượng sinh diệt, biến hóa; nó đồng nghĩa với từ ‘hữu vi’. Tất cả mọi hiện tượng chưa từng dừng nghỉ quá trình chuyển động dù chỉ trong nháy mắt, chúng luôn luôn thay đổi, sinh diệtbiến hóa, cho nên nói ‘chư hành vô thường’: tất cả mọi hiện tượng đều luôn thay đổi, không thường hằng bất biến. Hiện tượng ở đây bao hàm cả vật chất lẫn tinh thần, chúng biến đổi liên tục không gián đoạn.
Vô thường, anitya hoặc anityatā, có nghĩa là tất cả các pháp hữu vithế gian không có gì tồn tại mãi mãi, cái gì cũng thay đổi, biến hóa, sanh diệt không dừng. Tất cả các pháp hữu vi đều do nhân duyên mà sanh và đều có bốn tướng trạng: sanh, trụ, dị, diệt, gọi là tứ tướng vô thường. Bốn tướng này sanh diệt trong từng sát-na, sanh đó liền diệt đó.
Luận Đại Trí Độ, quyển 43, nói vô thường có hai loại, là niệm niệm vô thườngtương tục vô thường.
- Niệm niệm vô thường: Trong mỗi niệm, trong mỗi sát-na, các pháp hữu vi trải qua bốn tướng trạng sanh, trụ, dị, diệt; niệm này vừa sanh liền diệt, vừa diệt liền sanh, liên tục không gián đoạn.
- Tương tục vô thường: Vô thường tiếp nối vô thường tạo thành một dòng chảy vô thường tương tục: sanh, trụ, dị, diệt, rồi lại sanh, trụ, dị, diệt…
Luận Biện Trung Biên, quyển trung, phân tích vô thường thành ba loại: vô tính vô thường, sanh diệt vô thường và cấu tịnh vô thường.
- Vô tính vô thường: Còn gọi là vô vật vô thường. Tính biến kế sở chấp (các pháp vốn không có tự tính, do chúng sanh suy diễn, vọng tưởng [biến kế] rồi chấp vào đó mà cho là có tự tính), vì tính của nó là thường Không. Thành duy thức luận thuật ký giải thích: Vì thể tính thường Không, tức là cái tính ban đầu, mà Luận Biện trung biên gọi là Vô hữu vật (không có vật gì cả), thật sự thì không có gì vô thường cả (vì không có vật thì làm gì có vật vô thường?), cho nên nói các hành vô thường chỉ là một cách nói tạm thời.
- Sanh diệt vô thường: Còn gọi là khởi tận vô thường. Các pháp nương vào nhau mà sanh khởi, nương vào cái khác mà sinh khởi (y tha khởi), tức là đều do duyên mà sanh, cho nên nó cũng sẽ do duyên mà diệt tận, vì vậy mà gọi là sanh diệt vô thường.
- Cấu tịnh vô thường: Còn gọi là hữu cấu vô cấu vô thường. Các pháp viên thành thật cũng chuyển biến vô thường, bản chất của nó không có dơ hay sạch. Nếu ở trong dòng sanh tử mà nói thì gọi là dơ, nếu cắt đứt dòng sanh tử rồi thì gọi là tịnh, cho nên cấu hay tịnh đều vô thường.
Ngoài raLuận Thuận Trung, quyển hạ, cũng nói vô thường có ba loại là niệm niệm hoại diệt vô thường, hòa hợp ly tán vô thườngtất cánh như thị vô thườngĐại Thừa Nghĩa Chương, ở quyển 2 và quyển 18 cũng đề xuất ba loại vô thườngphân đoạn vô thường, niệm vô thườngtự tánh bất thành vô thường. Về mặt tên gọi vô thường trong hai bộ luận vừa nêu khác nhau nhưng ý nghĩa thì tương đồng.
Luận Hiển Dương Thánh Giáo, quyển 14 thì đề xuất sáu loại và tám loại vô thường. Sáu loại vô thường là:
1. Vô tính vô thường: Nghĩa là tất cả các pháp tính vốn không, là tính biến kế, chứ không phải thật có, như hoa đốm giữa hư không, tính của nó là thường không (thường không có thật).
2. Thất hoại vô thường: Các pháp đều hoại diệt và biến mất vô thường.
3. Chuyển dị vô thường: Chuyển dị là thay đổi thành cái khác, biến thành cái khác. Các pháp thường đổi khác như thế, giống như đứa bé trong bào thai luôn chuyển đổi trong suốt mười tháng hoài thai thì mới lớn lên thành người được.
4. Biệt ly vô thường: Có hợp có tan.
5. Đắc vô thường: Hiện tại thọ cái quả vô thường là do cái nhân vô thường đã tạo.
6. Đương hữu vô thường: Các pháp đang hiện hữu nhưng thực chất đang chuyển hóa liên tục qua bốn tướng trạng thành, trụ, hoại, không.
Tám loại vô thường là: 1. Sát-na vô thường, 2. Tương tục vô thường, 3. Bệnh vô thường, 4. Lão vô thường, 5. Tử vô thường, 6. Tâm vô thường, 7. Khí vô thường, 8. Thọ dụng vô thường. Trong đó, sát-na và tương tục là hai loại vô thường có mặt khắp mọi nơi; bệnh, lão, tử là ba loại vô thường ở nơi sắc thân; tâm vô thường là chỉ cho tâm thức luôn thay đổi; khí và thọ dụng là hai loại vô thường ở nơi sắc bên ngoài thân.
Liên quan đến tướng trạng vô thường, các kinh luận phần nhiều dùng những hình ảnh để diễn tả, như Kinh Kim cương bát-nhã, dùng hình ảnh giấc mộng, ảo thuật, bọt nước, cái bóng, hạt sương, tia lửa điện để thuyết minh tất cả các pháp hữu vi đều vô thường, không thật.
Đại tạng pháp sốquyển 46, thì căn cứ vào Tông cảnh lục liệt kê tám thí dụ là nước xuôi về đông, mặt trời xế bóng, chớp lòe đá lửa, bóng câu qua khe cửa, đèn chong trước gió, sương đầu ngọn cỏ, cây khô vách núi, chớp lòe trước mắt để chỉ tính chất vô thường của các pháp.
A-tỳ-đạt-ma tạp luận, quyển 6, cũng nêu các tướng trạng vô thường, tóm lược có 12 loại, đó là tướng không có thật, tướng hoại diệt, tướng biến dị, tướng biệt ly, tướng hiện tại, tướng tự nhiên, tướng sát-na, tướng tương tục, tướng bệnh yếu, tướng tâm hành mỗi mỗi thay đổi, tướng hưng suy, tướng thế gian thành rồi hoại.
Ngày nay, khoa học tự nhiên dường như đã làm sáng tỏ thêm khái niệm vô thường của Phật giáo. Hồi trước, người ta cho rằng, nguyên tử, đơn vị vật chất nhỏ nhất, là bất biến, không thay đổi; nhưng ngày nay người ta đã chứng minh được nguyên tử cũng thay đổi, không phải là bất biến, và cũng không phải là vật chất nhỏ nhất. Bên trong hạt nguyên tử còn có điện tử, trung tử… chúng có thể tính luôn luôn vận động kết hợp mà thành. Vật chất nhỏ bé nhất có thể nói là lạp tử, nhưng lạp tử cũng không phải là một vật chất cố định, bất biến; nó cũng thường xuyên biến hóa. Những khám mới của khoa học này ngày nay ai cũng biết. Vật chất hình thành từ những nguyên tử phức hợp, từ vật chất nhỏ nhất cho đến vật chất cực lớn như thiên thể vũ trụ, đều hình thành từ những hạt cơ bản có tính chất vật lý, hóa học biến hóa không dừng. Sự khám phá khoa học này đã thêm một lần nữa chứng minh giáo lý ‘chư hành vô thường’ của Phật giáo luôn là chân lý.
Tuy nhiên, Phật giáo không dựa vào khoa học để tồn tại! Phật giáo nhận thức các pháp vô thường không phải bằng phương pháp phân tích của khoa học mà bằng thực nghiệm hiện lượng hay trực giác chứng ngộ.
5.2. Chư pháp vô ngã (sabbe dhammā anattā, anāt-manaḥ sarvadharmāḥ).
Chữ ‘pháp’ trong ‘chư pháp’ cùng một ý nghĩa với ‘chư hành’, đều chỉ cho tất cả mọi hiện tượng.
Vô ngã là không có cái ngã. Khái niệm về ngã, trong tư tưởng triết họctôn giáo của Ấn độ cổ đại thường chỉ cho bản thể hoặc thật thể vĩnh hằng, không bị sanh diệt, biến hóa. Phật giáo cho rằng, cái thật thể hay bản thể nằm ngoài kinh nghiệm nhận thức của con người, nó có tồn tại hay không chúng ta không có phương pháp nào để xác định nhận biết, cho nên gọi nó là vô ký, và do đó Đức Phật khuyên các tỳ-kheo không nên tìm hiểu về vấn đề này.
Dưới một ý nghĩa nào đó, Phật giáo không nói ‘ngã’ không có thật thể, nhưng Phật giáo nói, ở trong thế giới của chúng ta, tất cả mọi pháp đều vô ngã. Do đó, khi nói ‘chư pháp vô ngã’ có nghĩa là tất cả mọi sự vật đều không có ngã.
Đại đa số quần chúng đều dễ dàng tiếp nhận ý nghĩa ‘chư hành vô thường’, nhưng đối với ý nghĩa ‘chư pháp vô ngã’ thì ngoại đạo không thể chấp nhận được, cho nên, giáo lý ‘chư pháp vô ngã’ trở thành giáo lý duy nhất của Phật giáo.
Thuở Phật còn tại thế, các tôn giáo bấy giờ đều cho rằng tất cả mọi sự vật đều có bản thể tồn tại vĩnh viễn bất sanh bất diệt. Bản thể đó gọi là Ngã (atman). Tôn giáo bấy giờ khi đề cập đến Phạm, đề cập đến Ngã, tức là đều chỉ cho cái bản thể. Bản thể hay thật thể của vũ trụ gọi là Phạm (brahaman), còn bản thể hay thật thể của cá nhân thì gọi là Ngã (atman).
Phật giáo cho rằng, cái bản thể đó con người không thể nhận thức được, cũng không có phương pháp gì để chứng minh nó có tồn tại hay không, cho nên Phật giáo gọi là vô ký, tức không xác định. Hơn nữa, cái bản thể hay thật thể này nó không có quan hệ gì đến hiện tượng giới và thế giới của chúng ta, nó cũng không có lợi ích gì đến sự nghiệp tu hành giải thoát, do đó không cần phải đem nó ra đặt vấn đề để nghiên cứu. Cái thấy của Phật giáo là tất cả mọi hiện tượng giới đều không có Ngã.
Khi Phật giáo Đại thừa hưng khởi, thuật ngữ Không (śūnya) và Không tính (śūnyatā) được sử dụng rộng rãi để nói đến Vô ngã. Vô ngã và Không là đồng nghĩa.
Thiền tông Trung hoa cũng sử dụng từ ‘Vô’ để chỉ cho ý nghĩa Vô ngã. Cả hai thuật ngữ ‘Không’ và ‘Vô’ đều không mang ý nghĩa hay liên quan gì đến khái niệm hư vô.
Phật giáo không đề cập đến vấn đề bản thể luận. Phật giáo nói đến Không và Vô, nhưng nó không mang ý nghĩa hay liên quan gì đến bản thể luận, mà nó phản ảnh sự thật trạng thái của hiện tượng giới là Không và Vô. Vô ngãtừ ngữ biểu thị trạng thái không tồn tại một cái Ngã của tất cả mọi hiện tượng.
Tất cả mọi hiện tượng đều Vô ngã và Không tức là chúng không có tự tính (niḥs-vabhāva), không có tính cố định, luôn vô thường; không tự sanh ra, không tự có mặt.
Tất cả các pháp đều không tự sanh ra và cũng không tự nó mất đi. Nghĩa là, các pháp không phải là bất sanh, bất diệt, các pháp không có thật thể cố định. Khái niệm ‘cố định’ là chỉ cho sự tồn tại độc lập. Nếu con người có tính cố định thì người này không liên quan đến người khác. Nhưng trên thực tế, xã hội nhân sanh đều có mối quan hệ mật thiết với nhau, không có cái gì tồn tại tuyệt đối, đơn độc, riêng lẻ. Tất cả mọi sự vật hiện tượng đều tồn tại trong một mối tương quan, liên hệ với thời gian, không gian và tương tác lẫn nhau.
Xã hội, nhân sanh cũng không có hoạt động cố định, tất cả đều tùy thuộc vào những điều kiện nhân duyênbiến hóa, thay đổi.
Trên thật tế, Vô ngã và Không có thể phân ra làm hai phương diện để nói, đó là Vô sở đắc và Vô quái ngại.
- Vô sở đắc (aprāpti), tức là không thể nắm bắt được (không chấp trước). Con người có một ý niệm cho rằng có cái ta và cái của ta, và còn có người nghĩ rằng những cái đó là cố định, trường tồn, và luôn mong nó cố định bất biến. Nhưng sự thật, không có cái gì để gọi là ta và của ta, bởi vì tất cả đều Vô ngã, đều là Không.
- Vô quái ngại (anāvaraṇa), tức là không còn chướng ngại, đạt được sự tự do tự tại. Đây là trạng thái đạt được khi tu tập thành công Vô sở đắc, không còn chấp trước. Không chấp trước thì có được khả năng hoạt động tự do tự tại mà vẫn đúng như pháp. Khổng Tử cũng có nói là ‘Tùy theo chỗ ước muốn của tâm mà vẫn không ra ngoài khuôn phép’. Câu nói này cũng có ý nghĩa như trong đạo Phật, một khi đã Vô ngã, đã Không rồi thì tự do tự tại, không có gì có thể gây chướng ngại. Lý tưởng của Phật giáohoàn thành nhân cách, đạt đến một cuộc sống thường nhật thong dong tự tại. Đức Phật dạo chơi trong Tam giới chính là đạt được cảnh giớichướng ngại này.
Vô ngã và Không là đặt bản thân mình vào trong trạng thái Không. Do đó, ở trong cái trạng thái Không ấy không có một cái Ta làm trung tâm cho mọi tham dục, không có cái Ta nhiễu hại, dọa nạt người khác, ganh ghét, nịnh hót, khinh miệt, oán hận hay luyến mộ người khác… Để thân tâm mình vào trạng thái Không là luôn luôn đứng ở lập trường của người khác, đứng ở lập trường của toàn thể, để rồi từ đó suy nghĩ chính chắn rồi sau đó mới hành động, và hành động mà không làm nhiễu loạn người khác. Đồng thời, đối với người và vật luôn luôn ôm ấp tấm lòng từ bi thương xót, không có sự đối lập giữa ta và người mà luôn luôn rộng rãi bao dung người khác. Vô ngã, như vậy, cuối cùng trở thành Đại ngã chăng?!
Vô ngã là cái nhìn chính xácnhư thật về xã hộinhân sinh. Có thể nói, Vô ngã đồng nghĩa với Duyên khởi và Chư pháp thật tướng (tướng chân thật của các pháp).
5.3. Niết-bàn tịch tịnh (santaṃ nibbānaṃ, śāntamnirvāṇam).
Niết-bàn, nirvāṇa, trong ngôn ngữ Ấn độ bao gồm những ý nghĩa: lửa tắt, hết, chết, hoàn toàn yên lặng, yên ổn, vắng lặng hoàn toàn, chết và đi qua chỗ khác. Ngài Huyền Tráng dịch là viên tịch.
Người Ấn độ dùng từ này để chỉ cho ngọn lửa bị tắt ngấm, hoặc bị gió thổi cho tắt; chẳng hạn, khi ngọn đèn bị tắt thì gọi là ‘đăng diệm niết-bàn.’[7]
Các tôn giáo tại Ấn độ đã sớm sử dụng từ ngữ này để chỉ cho cảnh giới lý tưởng tối cao. Luận Đại Tì-bà-sa liệt kê dị giáo có tới năm loại ‘hiện pháp niết-bàn’, tức họ cho rằng sự hưởng thụ khoái lạc năm dụcthế gianđạt được bốn thiền định là niết-bàn.[8]
Bà-la-môn giáo lấy sự tu trì đạt đến cảnh giới Phạm - Ngã hợp nhất, hoặc sau khi chết sanh lên Phạm thiên là chứng ‘Phạm niết-bàn’.
Từ đó, chúng ta biết rằng, nguyên thuỷ từ ‘niết-bàn’ không phải là danh từ riêng biệt của Phật giáo. Tuy nhiên, khi danh từ ‘niết-bàn’ xuất hiện trong kinh điển Phật giáo thì nó đã mang nội dung ý nghĩa mới; và cho đến ngày nay thì từ ‘niết-bàn’ đã trở thành một thuật ngữ đặc hữu và trang nghiêm của Phật giáo.
Trong Kinh Đại bát-niết-bàn liệt kê niết-bàn có 25 loại[9]; Luận Tứ đế nêu niết-bàn có 66 tên gọi khác nhau.[10] Điều này cho thấy trạng thái an lạc, hạnh phúc có rất nhiều cấp độ khác nhau trong lộ trình đoạn hoặc, tu chứng.
Trong kinh luận Hán tạng, người ta phải dùng các từ vô vi, chân đế, bỉ ngạn, vô hoại, vô động, vô ưu, vô cấu, bất sinh, giải thoát, vô uý, an ổn, vô thượng, cát tường, vô hý luận, vô tránh… cho đến các từ chân như, thật tướng, như lai tạng, pháp thân v.v… để chỉ trạng thái hoặc tính chất của niết-bàn.
quan niệm cho rằng, chết là niết-bàn, như khi nói ‘nhập niết-bàn’, nghĩa là một vị Thánh giả trở lên từ bỏ xác thân này. Đó là một quan niệm sai lầm! Nếu nói rằng chết là niết-bàn thì khi Đức Thích-ca Mâu-ni thành đạo dưới cội cây bồ-đề, ngay sau khi thành đạo, chứng niết-bàn Ngài đã chết rồi! Cho nên, dưới cây bồ-đề đức Phật chứng niết-bàn và cái chết không liên quan gì nhau hết. Nên hiểu, như Kinh Thắng Man đã nói, “người chứng đắc a-nậu-đa-la tam-miệu-tam-bồ-đề tức là chứng đắc niết-bàn.”[11]
Các nhà phiên dịch khi diễn tả cái chết của một Thánh giả thì dịch là ‘bát-niết-bàn’ (parinirvāna). Chữ ‘bát’ (pari) có nghĩa là ‘hoàn toàn không còn sót lại’, vì vậy, bát-niết-bàn có nghĩa là thân và tâm cuối cùng của một vị A-la-hán đã hoàn toàn diệt hết, tức vô dư niết-bàn (niết-bàn hoàn toàn, không còn sót lại gì hết). Hiển nhiên, trạng thái niết-bàn này so với Đức Phật khi ngồi dưới cội cây bồ-đề hoặc một vị Thanh văn đang còn sống chứng đắc ‘hiện pháp niết-bàn’ có sự khác biệt.
Niết-bàn có nghĩa là ‘diệt’. Chữ ‘diệt’ này có nghĩa là diệt hết mọi phiền não, tai hoạ. Kinh Tạp A-hàm nói : “Tham dục đã được đoạn trừ vĩnh viễn, sân khuể đã được đoạn trừ vĩnh viễn, ngu si đã được đoạn trừ vĩnh viễn, tất cả mọi phiền não đã được đoạn trừ vĩnh viễn, đó là niết-bàn.”[12] Kinh Đại bát-niết-bàn cũng nói : “Hết khổ đau nghĩa là niết-bàn.”[13] Đó là thuyết minh chữ ‘diệt’ có nghĩa là tiêu diệt phiền não và khổ đau; phiền não và khổ đau tiêu diệt thì xuất hiện cảnh giới tịch tịnh, an ổn, khoái lạc, gọi là niết-bàn tịch tịnh.
Nam truyền và Bắc truyền đều có Kinh niết-bàn, và cả hai truyền thống đều rất coi trọng bài kệ trong Kinh niết-bàn là ‘chư hành vô thường, thị sinh diệt pháp, sinh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc’. Tịch diệtđời sống tràn đầy pháp hỷ, không chỉ Thanh văn mà ngay cả tinh thần của Bồ-tát cũng được nuôi dưỡng đời sống bằng pháp hỷ tịch diệt.
Câu-xá luận dùng hình ảnh ngọn lửa tắt ngấm để dụ cho trạng thái niết-bàn mà Đức Phật chứng được với tâm giải thoát cũng như vậy. Luận nói : “Giống như ngọn lửa tắt ngấm (ngọn lửa niết-bàn), sự giải thoát tâm cũng như vậy. Có nghĩa là, giống như sự lụn tàn của ngọn lửa chỉ là sự đi qua của ngọn lửa mà không phải sự đi qua của một thực thể nào khác, sự giải thoát của tâm Thế tôn cũng vậy, chỉ là sự diệt tận các uẩn chứ không có gì khác.”[14]
Kinh niết-bàn của truyền thống Bắc truyền hình như đã phủ định ý nghĩa trên của Câu-xá và cho rằng: “Nếu nói Như lai nhập niết-bàn giống như củi hết lửa tắt thì nói như vậy là bất liễu nghĩa ; còn nói Như lai nhập vào pháp tính thì là liễu nghĩa.’ Kinh này còn nói: ‘Nếu dầu đã cạn hết thì ánh đèn cũng tắt theo, ánh đèn đã tắt là dụ cho phiền não đã diệt hết, ánh đèn tuy đã tắt nhưng cây đèn thì vẫn còn; Như lai cũng như vậy, phiền não tuy đã diệt hết nhưng pháp thân thì vẫn thường tại.”[15]
Kinh niết-bàn của truyền thống Bắc truyền là một tập hợp vô cùng phong phú về ý nghĩa của niết-bàn, như cho rằng niết-bàn có đầy đủ ba đức tính là pháp thân, bát-nhã, giải thoát ; hoặc có đầy đủ bốn đức tính thường, lạc, ngã, tịnh; hoặc có đầy đủ tám công đức thường, hằng, an, thanh lương, bất lão, bất tử, vô cấu, khoái lạc, giống như tám hương vị của đề hồ. Ý nghĩa của niết-bàn như vậy cho thấy bản thể của niết-bàn không hề rơi vào trạng thái hư vô, tịch diệt, ngược lại, niết-bàn lấy thật tướng hoặc pháp thân làm bản thể và có tác dụng làm cho sinh mạng vô cùng tận.
Trên phương diện lịch sử, chúng ta nhận thấy rằng, thời kỳ Phật giáo bộ phái, niết-bàn được phân thành hai loại, hữu dư niết-bànvô dư niết-bàn. Hữu dư niết-bàn nói rằng, tuy đã đoạn tuyệt tất cả mọi phiền não để siêu thoát sanh tử, nhưng vẫn còn chịu quả báo của nghiệp quá khứ (tức chỉ cho nhục thể), nên chưa thể nói là niết-bàn hoàn toàn. Ở một phương diện khác, vô dư niết-bàn là đã đoạn tuyệt tất cả mọi phiền não và cũng đã đoạn tuyệt nhục thể, không còn dư y, tức là niết-bàn hoàn toàn, như Phật nhập diệt. Bát-niết-bàn là chỉ cho niết-bàn hoàn toàn.
Đến thời kỳ Phật giáo phát triển, niết-bàn được nhận thức thêm là Tự tính thanh tịnh niết-bàn và Vô trụ xứ niết-bàn, thành ra có bốn loại niết-bàn.
Tâm tính tức là Phật tính, xưa nay vốn thanh tịnh, có đủ các đức tính  của Niết-bàn là thường, lạc, ngã, tịnh. Phật tính này chính là Tự tính thanh tịnh Niết-bàn. Vô trú xứ Niết-bàn là chỉ cho ‘nhờ vào đại trí mà không trụ ở trong sanh tử, nhờ đại bi mà không trụ nơi Niết-bàn’; Vô trú xứ Niết-bàn cũng có nghĩa là Niết-bàn chân thật, không trú nơi sanh tử, không trụ nơi Niết-bàn, không chấp trước, không trú trước. Trạng thái Niết-bàn của Đức Phật nhất định cũng giống như vậy.
6. Kết luận
Trong rất nhiều kinh, Đức Phật thường hỏi các Tỳ-kheo:
- Này các Tỳ-kheo! Năm uẩnthường hay vô thường?
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
- Bạch Đức Thế Tôn, là vô thường.
- Nếu là vô thường, là pháp thay đổi thì có ngã và ngã sở không?
- Không có ngã và ngã sở.
Đức Phật liền dạy:
- Này các Tỳ-kheo! Hãy quán sát như vậy! Quán sát các pháp vô thường, vô ngã liền đạt được giải thoát.
Căn cứ đoạn kinh văn này chúng ta có thể thấy ba Pháp ấn liên quannhất quán với nhau. Trong ba Pháp ấn, Niết-bàn tịch tịnh tức chính là giải thoát, cũng chính là Không. Đức Phật từng dạy rằng: ‘Các hành đều là Không. Không thường, luôn thay đổi, không có ngã và ngã sở. Tính của các pháp là như vậy’.
Bản tính của tất cả các pháp hữu viKhông tịch. Không tịch cho nên vô thường, vô ngã; và vì vậy mà có thể thực hiện Niết-bàn. Ý nghĩa này được khai triển từ ý nghĩa Không trong Duyên khởi. Cho nên, trong kinh thường nói ‘Không tương ưng với Duyên khởi’. Duyên khởi vốn được khai triển từ ý nghĩa Không, quán sát Duyên khởi thì ngộ được lý tính của tất cả các pháp đều quy về Không tịch. Đây là phương pháp và cũng là mục đíchĐức Phật tuyên thuyết giáo lý Duyên khởi.
Phật nói Tam Pháp ấn là từ tư cách hay tự thân của một chúng sanh hữu tình mà nói. Hữu tìnhVô thường, Vô ngãKhông tịch. Trong các tôn giáo truyền thống của Ấn độ, đặc biệt là các tôn giáo mới hình thành, mỗi tôn giáo đều cho rằng, trong cái thân năm uẩn sanh tử này, hoặc ngoài cái thân năm uẩn này, có tồn tại một cái Ngã chân thậtthường trụ. Đức Phật cho rằng, Hữu tìnhHữu tình của Duyên khởi, y theo Duyên khởi mà nói thì không có một cái gì là thường trụ, cái gì cũng Vô thường, Vô ngã.
Một số người cho rằng, hoàn cảnh thích ýhạnh phúc, hoặc cho rằng duy trì được trạng thái tâm cảnh hòa bình, không khổ không lạc là an ổn. Nhưng theo tuệ giác của Đức Phật, như vậy cũng còn khổ! Cái khổ này, không phải là cái khổ ưu sầu, mà là cái khổ do Vô thường. Tất cả mọi niềm vui hạnh phúc, an ổn đều thay đổi, biến hóa không dừng. Cho dù có xứng tâm vừa ý cách mấy, bình an cách mấy, rồi thì cũng chỉ được một thời gian, cuối cùng đều hoại diệt. Có sanh ắt có tử, có trẻ ắt có già, có mạnh ắt có yếu, do đó mà nói ‘Vô thường là khổ’.
Bà-la-môn giáo có thuyết Thường ngã, đó là cái hạnh phúc vi diệu thù thắng. Đức Phật phản đối chủ thuyết này. Tất cả mọi sự mọi vật đều vô thường, biến đổi thì làm gì có cái hạnh phúc vi diệu thù thắng cứu cánh viên mãn? Cho nên, Phật nói vô thường là khổ. Khổ nên Vô ngã. Vì sao? Vì Ngã có nghĩa là chủ tể, là làm chủ mọi sự, là tự do tự tại. Nhưng, tất cả mọi loài hữu tình đều do các pháp uẩn, giới, xứ mà thành và biến hóa vô thường, mà vô thường thì khổ, khổ thì không có tự tại, như vậy làm sao gọi là có Ngã được? Đức Phật dạy, do vì chúng sanh hữu tình chấp có ngã cho nên mới tạo nghiệp để rồi lưu chuyển sanh tử không dừng. Chấp ngã là căn nguyên của sanh tử luân hồi. Nếu như giác ngộ Vô ngã thì không còn cái nhân sanh tử; hoặc, nghiệp đều không khởi, ngay đó thấy được thật tướng các pháp, đạt được chánh giác, tất cả đều là tịch tịnh Niết-bàn.
Đức Phật dựa trên đời sống của chúng sanh hữu tình mà nói ý nghĩa Tam Pháp ấn. Chúng sanh hữu tình tồn tại trên thế gian này dựa vào năm uẩnhoàn cảnh để năm uẩn tồn tại, tất cả những pháp này đều là vô thường. Thế gian quả thậtvô thường, nhưng không thể nói vì vô thường nên thế gian gian khổ và vô ngã. Chẳng hạn, nói cây viết này là vô thường, điều này đúng, nhưng không thể nói vì vô thường nên cây viết khổ và vô ngã. Cây viết là vô tình, căn bản là nó không có cảm giác, tức là nó không biết khổ hay không khổ. Nó không biết khổ hay không khổ, cũng không biết tự do hay không tự do, và cũng không biết chấp trước là ngã. Nó không có ngã, và cũng không có nhu yếu để đòi hỏi vô ngã. Cho nên, thuyết vô thường là khổ, khổ nên vô ngãy cứ trên đời sống của chúng sanh hữu tình mà nói.
Đức Phật thuyết giảng ba Pháp ấn với một phương pháp vô cùng thiện xảo, bởi đồng một mệnh đề mà vừa làm hai phương diện giải thoát: vừa là chân tướng của sự thật, là lý tính phổ biến, vừa là quá trình thực tiễn.
Ba Pháp ấn có nghĩa vô cùng sâu xa, nhưng trong mỗi Pháp ấn đã bao hàm hai Pháp ấn kia. Mỗi một Pháp ấn đã có thể khai hiển nội dung chánh giác. Tức là, mỗi một Pháp ấn đã có năng lực xa lìa chấp trước, chứng quả chân thật. Y theo cánh cửa Vô thườngngộ nhập, tức là vào cánh cửa Vô nguyện giải thoát môn; y theo Vô ngãngộ nhập, tức là vào cửa Không giải thoát môn; y theo niết-bàn tịch diệtngộ nhập, tức là vào cửa Vô tướng giải thoát môn. Bởi vì căn tính của chúng sanh hữu tình vốn bất đồng, cho nên hoặc nói như vậy, hoặc nói như kia, hoặc nói hai Pháp ấn, hoặc nói ba Pháp ấn, bốn Pháp ấn...
Thứ tự quá trình tu tập luôn in đậm tam Pháp ấn: trước hết là quán vô thường, do vô thường mà quán thấy vô ngã, và thấy vô ngãđạt được Niết-bàn. Trong kinh thường nói: yểm ly, ly dục, giải thoát. Đây cũng là thứ tự tu tập theo tam Pháp ấn. Quán chiếu các hành vô thường cho nên yểm ly những tai họa của thế gian mà tìm cầu sự xuất ly; thông đạt các pháp vô ngã, không có gì là ta, của ta cho nên xa lìa được tất cả mọi ái dục; ly dục rồi thì tất cả mọi phiền não đều rơi rụng, do đó mà đạt được Niết-bàn giải thoát.
Trong bộ Luận đại trí độ, Bồ-tát Long Thọ nói: Vô thườngcửa không, Không là cửa Vô sanh. Đây cũng là cách nói khác về thứ tự của ba Pháp ấn, vì Không tức là vô ngã, vô sanh tức là Niết-bàn.
Có thể nói giáo lý ba Pháp ấn vừa diễn tả chân tướng của các pháp, vừa là lịch trình, là bản đồ tu học. Đây là giáo pháp đặc biệt hy hữu và chỉ duy nhất có trong Phật giáo! 


[1] ĐTK/ĐCTT, T02, n°.0103, Phật thuyết thánh pháp ấn kinh, p.0500a10.
[2] ĐTK/ĐCTT, T02, n°.0104, Phật thuyết pháp ấn kinh, p.0500b25.
[3] ĐTK/ĐCTT, T02, n°.0104, Phật thuyết pháp ấn kinh, p.0500c02 :  此 法 印 者,即 是 三 解 脫 門,是 諸 佛 根 本 法,為諸佛眼,是即諸佛所歸趣故.
[4] Kinh dẫn thượng.
[5] ĐTK/ĐCTT, T15, n°.0599, Phật vị Hải long vương thuyết pháp ấn kinh, p.1057b10.
[6] ĐTK/ĐCTT, T02, n°.0099, Tạp A-hàm, kinh số 262, Xa-nặc. Tương đương Pali, S.22.90, Channo.
[7] Câu-xá luận, quyển 16.
[8] ĐTK/ĐCTT, T27, n°.1545, p.994c.
[9] ĐTK/ĐCTT, T12, n°.0374, p.0512c.
[10] ĐTK/ĐCTT, T32, n°.1647, p.0389c.
[11] ĐTK/ĐCTT, T12, n°.0353, p.0220c.
[12] ĐTK/ĐCTT, T02, n°.99, p. 126b.
[13] ĐTK/ĐCTT, T12, n°.0374, p.0514c.
[14] ĐTK/ĐCTT, T29, n°.1558, p.35a.
[15] ĐTK/ĐCTT, T12, n°.0374, p.0402a.

Thích Nguyên Hùng
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13183)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19343)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24594)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15727)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37804)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13457)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13078)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17158)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13195)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17373)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21610)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13211)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14381)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12801)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13649)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28562)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23366)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34353)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28847)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32159)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11318)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 11998)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26260)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17350)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14517)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34450)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13105)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12270)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13393)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40497)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26901)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14444)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13224)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13442)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12509)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13123)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12299)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11774)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12556)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17654)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12196)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12738)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18425)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14282)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 12979)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11309)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12137)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13447)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10827)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11066)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10277)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28861)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25238)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26836)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25736)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18651)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 22987)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34509)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 32135)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 30362)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant