Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Lắng lòng từ những tiếng “dạ” được nghe ở cửa thiền

21 Tháng Sáu 201909:01(Xem: 3045)
Lắng lòng từ những tiếng “dạ” được nghe ở cửa thiền

Lắng lòng từ những tiếng “dạ” được nghe ở cửa thiền

Phật tử, tôi tâm đắc phần thuyết giảng về ái ngữ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh và Sư Ông nơi thiền viện tôi quy y ngũ giới HT Thích Thanh Từ, rất hay. Thân, khẩu, ý - khái quát đường tu từ thời cổ xa xưa của Đức Chí Tôn khiến hậu thế chỉ có biết ngưỡng mộ kính phục.

Cuộc sống đang hồi bộn bề vàng thau; chuyện ngôn từ giao tiếp, thậm chí ngôn ngữ viết hàn lâm hay hành chính, sư phạm, báo chí… cũng nhiều soạn khiến ai quan tâm nhói lòng hoài.

Tôi có đúng 4 năm trong làm thành viên trong một câu lạc bộ điểm báo thuộc ban công tác bạn đọc báo Tuổi Trẻ TP. HCM, cũng tròn 208 bài điểm báo tuần. Hàng ngày đọc các báo in và báo điện tử để nắm bắt tin tức để góp ý cho công tác biên tập dưới góc nhìn người đọc, đề xuất đề tài hay cung cấp thông tin thô. Nghiệp giáo làng khiến thói quen bắt lỗi cứ như với môn tập viết hay chính tả tiểu học: bảng điểm báo nào tôi cũng lít chít kể ra lỗi câu cú chính tả hoàn toàn có thể khiến người tổng hợp và đọc phiền lòng. Những hạt sạn sơ đẳng vỡ lòng phát hiện được khi đã qua mấy vòng biên tập chuyên nghiệp của một nhật báo  hàng đầu và ký tên các cây bút ít ra có một bằng cử nhân!

Ngôn ngữ sinh hoạt cũng vào hồi ngổn ngang phiền não lắm, người ta vô tư sử dụng tràn ngập những thô từ xấu để giao tiếp nơi công cộng khiến ai nhạy cảm dễ tổn thương ức chế khi nhấp vội tách cà phê - vị đậm đà cafe không bù được sự chịu đựng thần kinh do một núi câu tục tỉu phải nghe trong quán xá. Tôi nghĩ không có mỗi mình buồn về chuyện này, trên báo người ta cũng viết nhiều.

 

Trả ngôn ngữ về với ngôn ngữ

Trả ngữ ngôn về lại cho ngữ ngôn, về với sự tôn nghiêm, cần thiết của chính nó, về với chổ đứng của thật ngữ, chánh ngữ, về với sự thiết yếu, truyền tải thông điệp đong đầy yêu thương trí tuệ, lòng vị tha, sự thanh thoát cao tột của tâm linh. Trả ngôn ngữ về với bản chất đích thực mà nó đã có, đã từng trú ngụ, đã từng yên vị, trả về với thuở ban đầu, nguyên ngữ, cái tâm thanh tịnh, không có sự dẫn đưa của vô minh, không có sự lôi kéo của ý thức xen vào gây rối, lũng đoạn, những phiền não bế tắc, trả về với chổ đứng nguyên thủy, nơi không có vọng niệm chen vào lôi kéo, không có cảm xúc thường tình nhảy vào tước đoạt, một sự tỉnh lặng tuyệt vời mà không ngôn ngữ nào đủ thẩm quyền để diễn tả. Một sự bình yên cao tột, không đến từ ngôn từ mời gọi, một sự vắng lặng chơn chất, dung dị vượt lên cao, trên những đỉnh cao lồng lộngý thức không bao giờ đuổi kịp.

Tự học qua kênh internet, tôi dõi theo bài giảng của một Giáo sư Tiến sĩ và ngỡ ngàng khi phải nghe vô số câu cứ không khác trong quán cà phê vỉa hè quê nhà, vị giáo sư khả kính cứ vô tư rủa xả trên bục giảng trước thính chúng trực tiếp và online, đụng đến phụ nữ và những tế nhị mà ngay giới thất học cũng ngại.

Phật tử, tôi tâm đắc phần thuyết giảng về ái ngữ của Thiền  sư Thích Nhất Hạnh và Sư Ông nơi thiền viện tôi quy y ngũ giới, HT Thích Thanh Từ, rất hay. Công dụng vi diệu của ngữ dù viết hay nói bất khả tư nghị, như thuốc cứu người hay giết người tùy duyên. Thân - khẩu - ý, sự khái quát đường tu từ thời cổ xa xưa của Đức Chí Tôn khiến hậu thế chỉ có biết ngưỡng mộ kính phục. Quan hệ thân khẩu ý là logic biện chứng và chủ đạo trong mỗi sinh thể người.

Làm truyền thông phật giáo, tôi có duyên đi một số cảnh tự và vinh dự được nghe pháp từ các bậc tu sĩ Phật giáo các vùng miền. Dư vị lắng đọng nhiều, đan xen, duy tiếng "dạ" từ các bậc xuất gia mà tôi nhận được thực  khó quên. Có mấy kỷ niệm gần kể lại sẻ chia.

 

Ngôn ngữ học vô chừng, tinh tế. Tiếng Việt lại càng cao sâu, nội hàm trong vỏ từ vựng "dạ" vô cùng, không gói hết trong khái quát ở các từ điển. "Dạ" với người tu Phật giáo là thực tập và hành tập thực sự, thoát phàm, nhỏ mà không hề nhỏ. Ảnh: Giác Ngộ Online

Khi xách ba lô hành hương núi Sam cách nhà mấy trăm cây số, trong khuya khoắt trải nghiệm thanh âm đêm và cảnh thiền ở Chùa Hang (Phước Điền tự), ngắm mải miết đồng ruộng xanh rì bên dưới không xa biên giới Việt Nam - Campuchia, kênh Vĩnh Tế ghi dấu lịch sử mở cõi, chậm bước vào hang "nghe" lại thời sư bà Diệu Thiện khai sơn tạo tự ẩn mình trong đấy thiền định từ thời rất trẻ. Rồi vinh dự tôi được đảnh lễ nghe trao đổi của vị Thượng tọa trụ trì đời thứ 4 của cổ tự - Ngài Thích Thiện Tài có nhũ danh Lê Văn Thọ.

Câu chuyện về thiền phái Vân Môn, về bổn quán Chợ Lớn của Sư Bà và cũng là nơi sinh của Ngài...Về hành trang không lắng ở chiếc quạt thiền, quà vật hay kinh sách chi, chỉ ở tiếng "dạ" khiêm cung từ ái của bậc trụ  trì lúc tôi làm lễ từ giã. Tiếng “dạ” của bậc xuất gia hàng Thượng tọa coi sóc một cổ tự nơi ngọn núi thiêng, là Phó Ban Trị sự Phật giáo tỉnh An Giang, ngài "dạ" với một cư sĩ cộng tác công quả cho truyền thông Phật giáo sơ cơ; tiếng dạ của khiêm cung và công hạnh tu tập, của sự thoát ly ngã mạnthông điệp từ ái... Quà ấy tôi mang về nâng niu hoài.

Dịp trước, trong dịp dự định đến Hội An tự ở Bình Dương dự học và tác nghiệp viết bài về tập huấn truyền thông Phật giáo cho Đông Nam Bộ & Tây Nguyên, tôi đã gọi điện xin phép với vị Đại đức Chánh thư ký Ban trị sự Phật giáo tỉnh Bình Dương trong ban tổ chức khóa học, nhưng không đủ duyên đến được. May mắn, tôi cũng viết được mẩu bài vụng về nhân khóa học; khi nhắn tin cảm ơnxin lỗi về chuyện không đến như đã trao đổi, tôi đọc hoài tin hồi đáp của vị Chánh thư ký, Thầy cảm ơn tôi và một tiếng "dạ". Thêm một kỷ niệm đáng giá.

Ngôn ngữ học vô chừng, tinh tế. Tiếng Việt lại càng cao sâu, nội hàm trong vỏ từ vựng "dạ" vô cùng, không gói hết trong khái quát ở các từ điển. "Dạ" với người tu Phật giáo là thực tập và hành tập thực sự, thoát phàm, nhỏ mà không hề nhỏ.

 

Thân, khẩu, ý - khái quát đường tu từ thời cổ xa xưa của Đức Chí Tôn khiến hậu thế chỉ có biết ngưỡng mộ kính phục.

Tôi cũng thường đi khám bảo hiểm y tế các bệnh mạn, ở Trung tâm y tế thị xã Giá Rai (Bạc Liêu) có một bác sĩ họ Lê cũng dạ với bệnh nhân! Thầy thuốc ở phòng khám cán bộ ấy khiến tôi ngỡ ngàng vì vui! Lần đầu trong đời tôi  được nghe âm thanh tuyệt vời ấy ở chốn thường bị kêu ca về tinh thần phục vụ. Có cần chi nhiều đầu, một giao tiếp thân áilịch sự bình thường như vốn có?

Đấy, những cảm xúc của tôi khi nghe tiếng "dạ" ở cửa thiền và "đời" khiến bài giảng về ái ngữ của các Sư Ông như thấm thía sinh động hơn nhiều, bộn bề về văn hóa giao tiếp, những tổn thương do “thô ngữ” vơi đi ...

Một tiếng "dạ" thôi, có khi là rất nhiều?

Muốn được giác ngộ ta phải chuyển hoá, làm mới tâm thứccon người của mình, phải thay đổi thói hư tật xấu, đoạn trừ vô minh, phiền não tham sân si, để cho trí tuệ phát khởi, bằng lòng với những gì đang hiện hữu, sống an nhiên với những gì đang có, đang tới, sẽ tới, phải tới, và nó phải được thành tựu từ một tâm hành an lạc chói sáng, cao tột, thánh thiện, để hoàn thành đại nguyện cứu mình và độ người.

Nguyễn Thành Công

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 163)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 215)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 409)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 308)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 337)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 621)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 678)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 636)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 685)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 599)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 540)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 685)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 702)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 492)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 574)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 667)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 588)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 590)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 709)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 703)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 768)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 791)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 768)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 960)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 827)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1383)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 912)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1076)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1060)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 991)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 980)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1121)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1397)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1740)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 971)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1157)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 966)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 817)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 944)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 971)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1394)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1138)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1171)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 924)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1068)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1518)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1396)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1384)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 979)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1373)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1288)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1250)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant