Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

An Lạc Tức Khắc

26 Tháng Sáu 201909:35(Xem: 2973)
An Lạc Tức Khắc

AN LẠC TỨC KHẮC
Thích Minh Không

 

đạo hữu hỏi tôi rằng thực sự có luân hồi (hệ quả của lý nhân quả ) hay không ? Sở dĩ có câu hỏi đó đa số là vì kẹt ở chỗ chỉ thấy có những gì xảy ra trong đời sống ở kiếp này mà như theo pháp của Phật thì nhân quả cần thấy qua 3 đời : quá khứ, hiện tại, vị lai… Có những nhân quảnhân tạo trong đời này nhưng quả có khi phải qua đời sau hoặc những đời sau mới trỗ. Và hoặc trong đời này dù sống rất là thiện nhưng hay gặp nhiều cảnh xấu. Rối cũng cần phân biệt  định nghiệp và bất dịnh nghiệp. Dù đã tạo nhân nhưng khi nhân chưa thành quả mà do những nhân duyện khác ngược lại thì nhân sẽ bị tiêu trừ và không thành quả Còn khi tạo nhân mà quả trở thành định nghiệp thì quả phải trỗ. Trong trường hợp này thì cho dù có tu tập thì quả cũng xảy ra ; nhưng sự khác biệt là nếu có tu tập thì chúng ta sẽ dễ chấp nhận một cách an nhiên .

Và khi được hỏi về luân hồi thì tôi trả lời rằng : trừ những người đã đạt quả thì không ai thấy được nhân quả qua 3 đời nhưng chúng ta có thể thấy những chỉ dấu (indices) ; chẵng hạn những hiện tượng thần đồng, những hiện tượng  một người tự nhiên nói một ngoại ngữ mà người đó chưa từng học qua ; hoặc là kể một nơi chốn mà người đó chưa hề đi tới, và rồi chúng ta thấy những trẻ sơ sinh dù mới có vài tháng nhưng đã có tính khí riêng biêt rõ ràng những thứ dó hòan toàn không do dạy dỗ…Nhưng những điều đó hoàn toàn không quan trọng. Điều tôi muốn nói với các đạo hữu là dù các đạo hữu có còn một chút nghi ngờ về luân hồi thì cũng nên hành trì theo Phật pháp.Tại sao vậy ? Thí dụ như khôngluân hồi, các bạn đi tìm hạnh phúc theo sự hiểu của mình như cần phải có nhiều tiền,cần có một danh vọng, địa vị ; cần có một tình yêu…Chỉ là những ảo tưởng vì tất cả những gì ở bên ngoài đó đều hình thành do nhân duyên và tan biến cũng bằng nhân duyên.Bởi vì nhân duyên tạo thành bởi những điều kiện. Hễ có điều kiện này thì có cái kia..không có thì thôi. Rồi thì, bạn sẽ phải miên man đối đầu với lo âu, sợ hải…Rồi vì vậy lúc tuổi già, bạn cảm nhận cuộc đơi thật là vô nghĩa . Nhưng khi các bạn tu tập theo Phật pháp thì mọi điều kiện sẽ từ từ tan biến : chẵng hạn bạn cúng dường bố thí không đặt điều kiệnđạt được cái này hay cái nọ mà đơn thuần là chia sẻ những gì mình có và người khác đang cần…Khi có tu tập hành trì (chẵng hạn thể hiện từ bi hỉ xả…) thì chúng ta cũng có an lạc ngay lâp tức,  lo âu và sợ hải trở nên xa lạ, hanh phúc ngay trong tầm tay. Hoặc nói đơn giản hơn, nếu chúng ta sống không mong cầu, không dính mắc thì chúng ta cũng có an lạc ngay lập tức bởi vì những khổ đau, lo âu, sợ hải do chúng ta có quá nhiều điều ham muốn ( tài,sắc,danh tực, thùy…) có quá nhiều dính mắc về vật chất,tình cảm,tinh thần…Điều đó không có nghĩa là từ bỏ tất cả những thứ này vì chúng cũng đến do nghiệp quả trong quá khứ đời trước hoặc đời này nhưng đừng sử dụng chúng để tạo nghiệp xấu mà ngược lại nên cố gắng nhờ những quả tốt để tạo thêm nhiều nhân tốt. Nói thì cũng khó mà có an lạc tức khắc vì chúng ta đều chịu áp lực rất mạnh cuả nghiệp lực cũ nhưng chắc chắn nếu ta liên tục tu tập thì càng ngày ta càng an lạc nhiều hơn . Và rồi  chúng ta càng ngày càng có cái cảm nghiệm sống rất thực , sống thực chứ không phải chỉ là hiện hữu (vivre au lieu d’exister). Và rồi nếu có luân hồi thì dĩ nhiên sự hành trì sẽ đem lại kết quả, cho dù  không giải  thoát thì kiếp tới cũng sẽ tốt hơn kiếp hiên tại. Tức là dù có luân hồi hay không thì tu tập theo đao Phật cũng tạo quả tích cực.

Một điều tôi muôn nói thêm là trong tiến trinh tu tập chúng ta nên làm những gì chúng ta có thể làm và hãy tạm bỏ qua những gi ngoài tầm tay. Chẵng hạn khi bố thí, ta có khi nghe nói đến ‘tam luân không tịch’ tức là 3 thứ không : không có ngưòi bố thí, không có ngưòi nhận bố thí và không có của cải bố thí ( tam luân không tịch thôi nên dành cho các vị đại bồ tát). Chúng sinh như chúng ta có ký ức, có ý thức cho nên dỉ nhiên chúng ta phải biết là ta có bố thí, có ngươi nhận bố thí, và có của bố thí ; có điều là ta nên mau quên những gi ta làm và luôn luôn ý thức rằng  tất cả những gì ta làm dù có tạo nhiều công đức hay phước đức đến đâu cũng chưa bằng một hạt cát trong sa mạc công đức và cũng chỉ là một giọt nước trả ơn cho cả đại dương mà ta nhận được tư nhũng ơn chư Phật, chư Bô tát và chúng sinh.                              

Hoặc câu nói ‘ năng lễ, sở lễ tánh không tịch’ và được lý giải rằng nếu lễ lạy trong tinh thần tánh không thì một lạy này bằng cả ngàn lạy bình thường. Thực là sai lầm khi so sánh hai thứ hoàn toàn khác nhau. Không thể nào nói 1000 con chuột bằng một con bò.1000 con chuột là 1000 con chuột và một con bò là một con bò. Thôi thì ta cứ lễ lạy chư Phật  một cách bình thường như là một chứng tỏ lòng thành kính và biết ơn, thế thôi.  

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 93)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 123)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 190)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 128)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 184)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 167)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 193)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 227)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 310)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 546)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 385)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 404)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 491)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 684)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 740)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 770)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 763)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 678)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 631)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 651)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 758)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 777)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 873)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 634)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 554)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 643)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 769)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 639)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 647)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 750)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 762)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 760)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 799)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 840)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 816)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1017)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 882)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1534)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 985)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1143)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 885)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1128)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1047)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1042)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1204)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1480)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1826)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1027)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1285)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1026)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 889)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1004)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1032)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1452)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1201)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1228)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 965)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1112)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1576)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant