Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

An Lạc Tức Khắc

26 Tháng Sáu 201909:35(Xem: 2995)
An Lạc Tức Khắc

AN LẠC TỨC KHẮC
Thích Minh Không

 

đạo hữu hỏi tôi rằng thực sự có luân hồi (hệ quả của lý nhân quả ) hay không ? Sở dĩ có câu hỏi đó đa số là vì kẹt ở chỗ chỉ thấy có những gì xảy ra trong đời sống ở kiếp này mà như theo pháp của Phật thì nhân quả cần thấy qua 3 đời : quá khứ, hiện tại, vị lai… Có những nhân quảnhân tạo trong đời này nhưng quả có khi phải qua đời sau hoặc những đời sau mới trỗ. Và hoặc trong đời này dù sống rất là thiện nhưng hay gặp nhiều cảnh xấu. Rối cũng cần phân biệt  định nghiệp và bất dịnh nghiệp. Dù đã tạo nhân nhưng khi nhân chưa thành quả mà do những nhân duyện khác ngược lại thì nhân sẽ bị tiêu trừ và không thành quả Còn khi tạo nhân mà quả trở thành định nghiệp thì quả phải trỗ. Trong trường hợp này thì cho dù có tu tập thì quả cũng xảy ra ; nhưng sự khác biệt là nếu có tu tập thì chúng ta sẽ dễ chấp nhận một cách an nhiên .

Và khi được hỏi về luân hồi thì tôi trả lời rằng : trừ những người đã đạt quả thì không ai thấy được nhân quả qua 3 đời nhưng chúng ta có thể thấy những chỉ dấu (indices) ; chẵng hạn những hiện tượng thần đồng, những hiện tượng  một người tự nhiên nói một ngoại ngữ mà người đó chưa từng học qua ; hoặc là kể một nơi chốn mà người đó chưa hề đi tới, và rồi chúng ta thấy những trẻ sơ sinh dù mới có vài tháng nhưng đã có tính khí riêng biêt rõ ràng những thứ dó hòan toàn không do dạy dỗ…Nhưng những điều đó hoàn toàn không quan trọng. Điều tôi muốn nói với các đạo hữu là dù các đạo hữu có còn một chút nghi ngờ về luân hồi thì cũng nên hành trì theo Phật pháp.Tại sao vậy ? Thí dụ như khôngluân hồi, các bạn đi tìm hạnh phúc theo sự hiểu của mình như cần phải có nhiều tiền,cần có một danh vọng, địa vị ; cần có một tình yêu…Chỉ là những ảo tưởng vì tất cả những gì ở bên ngoài đó đều hình thành do nhân duyên và tan biến cũng bằng nhân duyên.Bởi vì nhân duyên tạo thành bởi những điều kiện. Hễ có điều kiện này thì có cái kia..không có thì thôi. Rồi thì, bạn sẽ phải miên man đối đầu với lo âu, sợ hải…Rồi vì vậy lúc tuổi già, bạn cảm nhận cuộc đơi thật là vô nghĩa . Nhưng khi các bạn tu tập theo Phật pháp thì mọi điều kiện sẽ từ từ tan biến : chẵng hạn bạn cúng dường bố thí không đặt điều kiệnđạt được cái này hay cái nọ mà đơn thuần là chia sẻ những gì mình có và người khác đang cần…Khi có tu tập hành trì (chẵng hạn thể hiện từ bi hỉ xả…) thì chúng ta cũng có an lạc ngay lâp tức,  lo âu và sợ hải trở nên xa lạ, hanh phúc ngay trong tầm tay. Hoặc nói đơn giản hơn, nếu chúng ta sống không mong cầu, không dính mắc thì chúng ta cũng có an lạc ngay lập tức bởi vì những khổ đau, lo âu, sợ hải do chúng ta có quá nhiều điều ham muốn ( tài,sắc,danh tực, thùy…) có quá nhiều dính mắc về vật chất,tình cảm,tinh thần…Điều đó không có nghĩa là từ bỏ tất cả những thứ này vì chúng cũng đến do nghiệp quả trong quá khứ đời trước hoặc đời này nhưng đừng sử dụng chúng để tạo nghiệp xấu mà ngược lại nên cố gắng nhờ những quả tốt để tạo thêm nhiều nhân tốt. Nói thì cũng khó mà có an lạc tức khắc vì chúng ta đều chịu áp lực rất mạnh cuả nghiệp lực cũ nhưng chắc chắn nếu ta liên tục tu tập thì càng ngày ta càng an lạc nhiều hơn . Và rồi  chúng ta càng ngày càng có cái cảm nghiệm sống rất thực , sống thực chứ không phải chỉ là hiện hữu (vivre au lieu d’exister). Và rồi nếu có luân hồi thì dĩ nhiên sự hành trì sẽ đem lại kết quả, cho dù  không giải  thoát thì kiếp tới cũng sẽ tốt hơn kiếp hiên tại. Tức là dù có luân hồi hay không thì tu tập theo đao Phật cũng tạo quả tích cực.

Một điều tôi muôn nói thêm là trong tiến trinh tu tập chúng ta nên làm những gì chúng ta có thể làm và hãy tạm bỏ qua những gi ngoài tầm tay. Chẵng hạn khi bố thí, ta có khi nghe nói đến ‘tam luân không tịch’ tức là 3 thứ không : không có ngưòi bố thí, không có ngưòi nhận bố thí và không có của cải bố thí ( tam luân không tịch thôi nên dành cho các vị đại bồ tát). Chúng sinh như chúng ta có ký ức, có ý thức cho nên dỉ nhiên chúng ta phải biết là ta có bố thí, có ngươi nhận bố thí, và có của bố thí ; có điều là ta nên mau quên những gi ta làm và luôn luôn ý thức rằng  tất cả những gì ta làm dù có tạo nhiều công đức hay phước đức đến đâu cũng chưa bằng một hạt cát trong sa mạc công đức và cũng chỉ là một giọt nước trả ơn cho cả đại dương mà ta nhận được tư nhũng ơn chư Phật, chư Bô tát và chúng sinh.                              

Hoặc câu nói ‘ năng lễ, sở lễ tánh không tịch’ và được lý giải rằng nếu lễ lạy trong tinh thần tánh không thì một lạy này bằng cả ngàn lạy bình thường. Thực là sai lầm khi so sánh hai thứ hoàn toàn khác nhau. Không thể nào nói 1000 con chuột bằng một con bò.1000 con chuột là 1000 con chuột và một con bò là một con bò. Thôi thì ta cứ lễ lạy chư Phật  một cách bình thường như là một chứng tỏ lòng thành kính và biết ơn, thế thôi.  

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7323)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4503)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4549)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7285)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2946)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12178)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3979)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3792)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4177)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3663)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5020)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6640)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 3985)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4106)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5321)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3776)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4512)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3538)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3920)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4383)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5384)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3837)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3921)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3856)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4815)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4501)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4235)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3819)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4615)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4175)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6084)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4588)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4933)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4145)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4795)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5641)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3620)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4018)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4576)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5260)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3128)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4737)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4524)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4272)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4730)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4479)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4584)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7197)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5186)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 4982)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4571)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5589)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5255)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4151)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 5993)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4701)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4861)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5464)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5601)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5798)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant