Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

9 cách thay đổi số phận khi áp dụng các giáo lý nhà Phật

27 Tháng Sáu 201910:29(Xem: 4047)
9 cách thay đổi số phận khi áp dụng các giáo lý nhà Phật

9 cách thay đổi số phận khi áp dụng các giáo lý nhà Phật

 

Phật giáo cho rằng, mọi việc thành bại, li hợp ở đời đều không nằm ngoài nguyên tắc "nhân duyên quả báo". Thế nhưng có những người đối với số mệnh của bản thân không hề có một chút hiểu biết nào, khi cuộc sống trắc trở bèn oán trời trách đất.

 

Dưới đây là một số nhân tố ảnh hưởng tới số mệnh của chính chúng ta, quý Phật tử nên lưu ý để thay đổi cuộc sống của bản thân mình: 

1. Thói quen

Phật giáo thường nói phiền não khó trừ, mà trừ bỏ thói quen càng khó.

Thói quen là một mô thức cố định trong cuộc sống, tốt có xấu cũng có, sau một thời gian dài, thói quen trở nên tự nhiên và bám sâu rễ trong tâm mỗi người, đời đời kiếp kiếp khó tiêu trừ.

Bởi vậy, phải vô cùng thận trọng với thói quen. Các thói quen xấu như hút thuốc lá, đập đá, uống rượu, làm tổn hại thân thể, nói dối, trộm cắp, tham lam sẽ phá hỏng đạo đức.

Các thói quen tốt như kiểm soát cảm xúc, chú tâm vào hơi thở, ăn uống, vận động, lạc quan...sẽ kéo dài tuổi thọ.

Chăm chỉ, sạch sẽ, lợi mình lợi người. Phật giáo đề xướng tín đồ hình thành thói quen tụng kinh, có thể dựa vào Phật hiệu phát khởi Phật tính trong tâm, vãng sinh tịnh thổ, siêu vượt sinh tử.

Tóm lại, nếu như một người có đầy đủ điều kiện tốt nhưng nhiều thói quen xấu thì khó có phúc báo lớn. Thói quen tốt là một loại trợ duyên, có thể giúp người ta hóa dữ thành lành, biến hiểm thành an.

 

Nếu như một người có đầy đủ điều kiện tốt nhưng nhiều thói quen xấu thì khó có phúc báo lớn. Thói quen tốt là một loại trợ duyên, có thể giúp người ta hóa dữ thành lành, biến hiểm thành an. Ảnh minh họa

2. Một chữ tình

Người ta nói rằng "nếu ái không nhiều thì đã không sinh ra cõi đời này," con ngườichúng sinh hữu tình, tức là có tình cảm, nhưng một số người vì bám chấp vào chữ tình mà mất đi lí trí, do yêu mà sinh hận, cho đến gây ra những kết cục đau thương không thể cứu vãn.

Do tình yêu không như ý nên sinh ra bao phiền não đau thương, cho nên, Phật giáo dậy con người ta lấy trí tuệ để chuyển hóa tình yêu, dùng tâm từ để đối trị với bám chấp.

Đem tình yêu thăng hoa thành tâm từ bi, điều đó giúp con người giải thoát khỏi phiền não, khổ đau.

3. Khao khát quyền lực

Sự chi phối của quyền lực đến từ ngã chấp, ngã mạn, khiến con người ta có cái suy nghĩ giai cấp tôn quý-thấp hèn.

Có những người quá tự ti, cam tâm chịu khuất phục dưới quyền thế, không muốn tự chủ, cả đời chịu hèn kém.

Có người vì mong cầu quyền lực không từ mọi thủ đoạn, mất đi lí tính.

Còn Phật giáo cho rằng chúng sinh bình đẳng, người người đều có Phật tính, sự giàu sang hèn kém do đạo đức quyết định.

Chúng ta nên có một nhận thức rằng "ta là Phật", tin rằng vận mệnh ta nằm trong chính bàn tay ta.

 

Phật giáo cho rằng chúng sinh bình đẳng, người người đều có Phật tính, sự giàu sang hèn kém do đạo đức quyết định. Chúng ta nên có một nhận thức rằng "ta là Phật", tin rằng vận mệnh ta nằm trong chính bàn tay ta. Ảnh minh họa

4. Nghiệp lực

Phật giáo cho rằng nghiệp lực khống chế vận mệnh con người. Nghiệp lực là chỉ các lực ảnh hưởng sẽ sinh ra trong tương lai do các việc làm của thân thể, lời nói, suy nghĩ của mỗi người ở hiện tại và trong quá khứ.

Có rất nhiều người than thở rằng số mình không tốt bèn trách cứ người khác hoặc đổ lỗi cho hoản cảnh, họ không biết rằng hết thảy việc đó đều do nghiệp lực.

Làm thế nào để thành công một chuyện tốt?

Phật giáo chủ trương thiện có thiện báo, ác có ác báo, hàng ngày quảng kết thiện duyên, sám hối nghiệp chướng, thì có thể hóa giải ác duyên, mở ra một tiền đồ rạng rỡ.

Thói quen, mê tín, tình yêu, khát vọng quyền lựcnghiệp lực, làm thiện làm ác đều được quyết định bởi tâm chúng ta, muốn thay đổi vận mệnh lên bắt tay từ việc tịnh hóa tâm mình.

5. Mê tín

Có rất nhiều người thích xem bói, múc đích là muốn gặt lành tránh dữ.

Có người khi kết hôn nhất định phải xem tuổi của hai người có hợp nhau không, có người rất chú trọng phong thủy, có người thì việc gì cũng đi cúng bái, không hề dựa trên lí tính để đưa ra quyết định.

Hành vi mê tín đến từ tâm thiếu tự tin của chúng ta, có lúc chính vì mê tín mà mất đi cơ hội tốt, làm mất đi phúc báo lớn cả đời.

Phật giáo cho rằng, ngày nào cũng là ngày tốt, giờ nào cũng là giờ tốt, chỉ cần hợp với lí nhân quả thì không có gì phải kiêng kị.

Phật giáo cho rằng, ngày nào cũng là ngày tốt, giờ nào cũng là giờ tốt, chỉ cần hợp với lí nhân quả thì không có gì phải kiêng kị. Ảnh minh họa

6. Thay đổi quan niệm

Quan niệm ảnh hưởng tới phán đoán giá trị của một người, quyết định xu hướng thiện-ác của hành vi. Phật giáo chú trọng sự bồi dướng chánh kiến.

Cái gọi là chánh kiến tức là những kiến giải, nhận định chính xác, là những quan niệm chính xác.

Có một nhân sinh quan chính xác, tin vào nhân quả, hiểu rõ duyên khởi, tự nhiên sẽ không làm việc ác hay oán trời trách người.

7. Thay đổi hành vi

Tục ngữ thường nói "trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu." hành vi của mỗi người sẽ tạo ra nghiệp, một khi nhân duyên chín muồi thì quả ắt nảy sinh, cho nên chúng ta muốn có một tương lai tốt đẹp, hạnh phúc, thì phải chăm làm điều thiện, chuyển họa thành phúc, bởi vì hết thảy hạnh phúc hay khổ đau đều nằm trong tay chúng ta.

8. Quảng kết thiện duyên

Muôn vật muôn việc trong vũ trụ từ nhân cho tới quả còn có trợ duyên, nhờ duyên mà quả mới thành.

Cuộc đời của con người, có người rất thông minh, năng lực tốt nhưng lại không có thành tựu, có người thì hết sức bình thường nhưng làm việc gì cũng thuận lợi, tới đâu cũng có quý nhân giúp đỡ.

Vì vậy, chúng ta phải quảng kết thiện duyên. Kết thiện duyên là việc đẹp nhất trên thế giới này.

Giới luật là gốc rễ của mọi điều thiện, giới giúp ngăn ngừa điều ác, cái gọi là "họa phúc không cửa, do người tự chiêu," hành thiện ắt đạt được thiện báo, hành ác ắt gặp phải ác báo. Ảnh minh họa

9. Giữ gìn giới luật

Giới luật là gốc rễ của mọi điều thiện, giới giúp ngăn ngừa điều ác, cái gọi là "họa phúc không cửa, do người tự chiêu," hành thiện ắt đạt được thiện báo, hành ác ắt gặp phải ác báo.

Bởi vậy, kinh điển thí dụ "giới luật như thầy thuốc giỏi, giới luật như quỹ đạo, giới luật như tường thành, giới luật như đèn sáng, giới luật như bảo kiếm..." giữ giới luật sẽ chặt đứt ác duyên, tự nhiên có tương lai xán lạn, cuộc sống mĩ mãn.

Phật giáo có cái nhìn tích cựclạc quan về vận mệnh con người, chủ chương mọi thứ vô thường, duyên khởi tính không, tốt hay xấu đều có thể dựa vào thiện duyên để thay đổi, dù cho nghiệp chướng nặng cũng có thể thanh tịnh.

Vì vậy, bất luận sống trong giàu sang phú quý hay ở cảnh khổ ách nghèo đói đều nên nhìn nhận như vậy, hiểu rõ vận mệnh, thay đổi vận mệnh, và làm chủ vận mệnh.

Thanh Tâm (Tổng hợp)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 45)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 163)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 216)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 410)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 310)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 338)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 623)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 679)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 640)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 687)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 601)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 546)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 686)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 702)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 492)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 575)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 670)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 589)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 591)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 711)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 704)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 769)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 795)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 770)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 962)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 829)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1389)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 914)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1080)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1063)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 994)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 981)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1122)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1400)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1750)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 972)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1161)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 972)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 827)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 950)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 973)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1395)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1145)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1175)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 925)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1070)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1522)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1399)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1392)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 981)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1375)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1290)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant