Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tánh KhôngGiải Thoát

01 Tháng Bảy 201914:51(Xem: 3540)
Tánh Không Là Giải Thoát

TÁNH KHÔNGGIẢI THOÁT
Nguyễn Thế Đăng

 

Sắc thanh hương vị xúc pháp cấu thành thế giới của con người chúng taduyên sanh, vô tự tánh, bất khả đắcvô sở hữu; thế còn những chúng sanh và những cõi trong vũ trụ này thì như thế nào?

Kinh Pháp hội Văn-thù-sư-lợi phổ môn, bộ Đại Bảo tích nói: “Lại này Văn-thù-sư-lợi! Thế nào gọi là nam tướng tam-muội?

Tự cho mình người nam Thấy kia là người nữ Do tâm phân biệt này Mà sanh lòng ái dục. Lòng dục vô sở hữu Tâm tướng bất khả đắc Do vì vọng phân biệt Nơi thân tưởng là nam. Trong ấy thật không nam Ta nói như sóng nắng Biết nam tướng là Không Đó tên nam tam-muội.

Lại này Văn-thù-sư-lợi! Thế nào gọi là nữ tướng tam-muội?

Bốn đại giả làm nữ Trong ấy vô sở hữu Lòng phàm phu mê lầm Nắm lấy cho là thật. Người nữ như huyễn hoá Người ngu không thể biết Vì vọng thấy nữ tướng Mà sanh lòng nhiễm trước. Ví như huyễn hoá nữ Mà chẳng thật người nữ Kẻ vô trí mê mờ Bèn sanh trưởng ái dục. Biết rõ như vậy rồi Tất cả nữ không tướng Tướng nữ đều vắng bặt Đó tên nữ tam muội”.

Thấy thật có tướng nam tướng nữ và điên cuồng chấp chặt vào đó, không thể nào đổi khác, điều này tạo ra biết bao phiền não, đủ thứ xúc tình tiêu cực trong cuộc đời, tất cả đều bắt đầu từ tậm phân biệt. Quán sát sâu xa thì tâm phân biệtlòng dục sanh ra từ đó, là vô sở hữu, bất khả đắc, như sức nóng lay động trên mặt đường mà tưởng là sóng của nước. Như nhà ảo thuật huyễn hoá ra người nam người nữ mà chẳng thật có người nam người nữ. Như thấy người nam người nữ trong phim, sờ lên màn ảnh thì chẳng có ai cả, nhưng cho là thật, đó là do “vọng phân biệt”, “vọng thấy” rồi tự kể câu chuyện cho chính mình thấy, nghe, hay, biết. Kể hoài không biết chán, hết tập này đến tập khác, đó là tự mình tạo lập luân hồi sanh tử.

An trụ trong bản tánh của tâm là tánh Không và thấy những xuất hiện hình tướng nam nữ như là vô sở hữu, bất khả đắc, như huyễn hoá, không cho chúng là thật, là có tự tánh để rồi đuổi theo nắm bắt chúng, đây là sự giải thoát ngay khi sống trong đời sống được thiết lập bởi những xuất hiện hình tướng này. Những xuất hiện hình tướng trong đời sống bình thường này là những cơ hội cho chúng ta thấy ra bản tánh của chính mình và của tất cả mọi sự là tánh Không, nhưng nếu không biết mà mải miết đuổi theo chúng thì chúng ta dã tạo ra sanh tử luân hồi cho chính mình bằng những xuất hiện hình tướng ấy.

Ngoài cõi người, vũ trụ này còn có những cõi khác. Những cõi ấy tương ứng với những chúng sanh có nghiệp như vậy. Nếu khôngchúng sanh với nghiệp tương ứng, cõi ấy sẽ không có, và nếu đã có thì sẽ sụp đổ vì đơn giản là không có ai ở.

Kinh nói về cõi trời, cõi rồng (long), cõi dạ-xoa…

Lại này Văn-thù-sư-lợi! Thế nào gọi là thiên tướng tam-muội?

Nhân tín tâm thanh tịnh Và do các nghiệp lành Thọ báo tốt chư thiên Thân đoan chánh đẹp đẽ. Các cung điện ngọc quý Chẳng phải do xây dựng

Hoa đẹp mạn-đà-la Cũng không người gieo trồng. Chẳng nghĩ bàn như vậy Đều do sức nghiệp lành Hiện ra các thứ tướng Như lưu ly trong sạch. Thân đẹp đẽ như vậy Và các cung điện thảy Đều từ hư vọng sanh Đó tên thiên tam-muội”.

Do các nghiệp lành mà sanh ở cõi trời, và cõi trời ấy cũng do các nghiệp lành hội hợp mà có. Cõi ấy là do “sức nghiệp lành, hiện ra các thứ tướng”. Nhưng nghiệp là do nhiều nhân duyên sanh, vì hoà hợp bởi nhiều nhân duyên nên không thường hằng; nghiệp báo hết thì tan rã. Nghiệp tốt cũng như nghiệp xấu, có sanh rồi có diệt, không có tự tánh trường cửu, thực chấttánh Không, nên nói là “đều từ hư vọng sanh”. Nếu thấy cõi trờihư vọng, bèn thoát khỏi nghiệp làm một vị trời, được giải thoát khỏi nghiệp chư thiên, đó gọi là Thiên tam-muội. “Thọ lấy thân loài rồng Do chẳng tu hạnh nhẫn… Các loài rồng như vậy Huân tập tánh sai biệt Khởi lên các ác nghiệp Nghiệp cũng không có sanh Tất cả chẳng chân thật Kẻ ngu cho là có Biết rõ được như vậy Đó là long tam-muội”.

Làm loài rồng và ở cõi rồng là do không thực hành đức tính kham nhẫn. Không có nhiều đức tính kham nhẫn là bởi vì “huân tập tánh sai biệt, khởi lên các ác nghiệp”. Một nghĩa của chữ nghiệp là “thói quen”. Huân tập thói quen gì thì thành loài có thói quen ấy và ở cõi tương ứng với thói quen ấy. Sử gia Hy Lạp Herodote cũng có câu nói tương tự: “Tính tình tạo nên số phận”.

Nhưng làm sao để đối trị làm tiêu nghiệp? Phương pháp, con đườngquán sát sâu vào nghiệp, để thấy nghiệp do duyên sanh, giả hợp, cho nên thật ra, ở chân lý tuyệt đối “nghiệp cũng không có sanh” nên “chẳng chân thật”, “như huyễn”. Thấy được nghiệp là như huyễn thì huyễn làm sao trói buộc được? Dạ-xoa và cõi dạ-xoa:

“Là thân đại dạ-xoa Từ nơi tự tâm khởi Trong ấy không có thật Vọng sanh ra sợ hãi… Do quán pháp chẳng thật Vô tướng, vô sở đắc Chỗ Không, Vô, tịch tịnhhiện tướng dạ-xoa Biết hư vọng như vậy Là dạ-xoa tam muội”.

A-tu-la và cõi a-tu-la:

“Ấn định tướng tu-la Tướng ấy vốn vô sanh Vô sanh nên vô diệt Là tu-la tam-muội”.

Cho đến địa ngục:

“Địa ngục Không, vô tướng Tánh ấy rất thanh tịnh Trong ấy không tác giả Do tự phân biệt sanh. Lúc ta ngồi đạo tràng Biết tướng vô sanh này Vì vô tướng vô sanh Tánh ấy như hư không Tướng ấy đều tịch tịnhđịa ngục tam-muội”.

Tóm lại, sở dĩba cõi sáu đường là do thấy có tướng, ham thích và tạo lập tướng , để càng ngày tướng càng được vật thể hoá (reifi ed) mà thành nghiệp trói buộc. Không bị mê lầm bởi sự có thật của các tướng bằng cách thấy thật tánh của chúng là tánh Không, hư vọng, không thật, như huyễn, vô sanh vô diệt… người ta được giải thoát khỏi các cõi vốn do tướng hợp thành.

Như thế, tánh Khônggiải thoát. Tánh Không là nền tảng và cũng là quả của ba thừa: Thanh văn thừa, Bồ-tát thừa và Kim cương thừa.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5791)
Đức Phật đản sanh vào năm 624 trước Công nguyên. Theo lý giải của Phật Giáo Nam Tông thì Đức Phật sanh ngày Rằm tháng Tư Âm lịch.
(Xem: 9205)
Nếu bạn say mê đọc kinh Phật, ưa thích những phân tích kỹ càng về giáo điển, muốn tìm hiểu các chuyện xảy ra thời Đức Phật đi giảng dạy nơi này và nơi kia, hiển nhiên đây là một tác giả bạn không thể bỏ qua
(Xem: 7225)
Tánh Không là một trong những khái niệm quan trọng và khó thấu triệt nhất trong giáo lý Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 7115)
Nguyên bản: Meditating while dying; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6034)
Ba Mươi Hai Cách ứng hiện của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Bởi vì Quan Thế Âm Bồ Tát đồng một Sức Từ với đức Phật Như Lai cho nên ngài ứng hiện ra 32 thân, vào các quốc độđộ thoát chúng sanh
(Xem: 5186)
Thể tánh của tâm là pháp giới thể tánh, bởi vì nếu không như vậy thì tâm không bao giờ có thể hiểu biết, chứng ngộ pháp giới thể tánh.
(Xem: 5703)
Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là một khái niệm thu hút nhiều sự quan tâm của học giới từ phương Tây cho đến phương Đông
(Xem: 5512)
Thuật ngữ pháp (dharma, có căn động tự là dhṛ có nghĩa là “duy trì, nắm giữ”; Pāli: dhamma; Tây Tạng: chos) mang nhiều ý nghĩa và ...
(Xem: 3884)
Trì danh là pháp tu Tịnh Độ phổ thông nhứt hiện nay. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, có Mười cách trì danh khác nhau
(Xem: 5567)
Phật dạy tất cả pháp hữu vi đều là vô thường sanh diệt không bền vững, như vậy thìthế gian cái gì có tạo tác có biến đổi đều là vô bền chắc.
(Xem: 3996)
Nguyên bản: Removing obstacles to a favorable death; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7307)
Mối liên hệ giữa hình thức sớm nhất của Phật giáo và những truyền thống khác mà chúng đã phát triển về sau là một vấn đề luôn tái diễn trong lịch sử tư tưởngPhật giáo.
(Xem: 5625)
Nghiệp và Luân hồi là hai ý niệm đã có trong Ấn độ giáo, được giảng giải trong các Kinh Veda và Upanishad vào khoảng 1500 năm trước CN.
(Xem: 21648)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 5484)
Mục tiêu cao cả của đạo Phật là dạy con người tu tập để thoát khổ, giác ngộgiải thoát.
(Xem: 6875)
Phật giáo du nhập Nhật Bản vào thế kỷ thứ VI, sau đó trải qua thời kì Nara (710~785), thời kì Heian (794~1192) cho đến thời kì Kamakura (1192~1380), trước sau khoảng 700 năm, rồi phát sinh rất nhiều tông phái.
(Xem: 4910)
Tổ Quy Sơn dặn: “Nói ra lời nào phải liên hệ với kinh điển. Đàm luận gì, phải xét lại lời người xưa”.
(Xem: 6311)
Nhiều học giả phân vân là làm thế nào và tại sao những nhà Đại chúng bộ (Mahāsāṅghika) đã hình thành nên khái niệm về một Đức Phật siêu việt...
(Xem: 5656)
Hoa Sen Diệu Phápgiáo pháp được thuyết giảng trong Kinh Pháp Hoa. Quang Trạch giải thích Diệu Pháp là nhân của đạo Nhất Thừa, là quả của đạo Nhất Thừa.
(Xem: 4902)
Con người sống qui tụ lại thành một xã hội, và phát triển tập thể này rộng lớn dần dần thành một quốc gia.
(Xem: 6938)
Trước khi xác định Phật Giáo như là một hệ thống tư tưởng triết học (Buddhism as a philosophy) hay như là một tôn giáo (Buddhism as a religion), chúng ta sẽ tìm hiểu triết học là gì ? và Phật giáo là gì ?
(Xem: 5938)
Lục độ Ba-la-mật-đa/ Sáu phương pháp tu Ba-la-mật-đa (Six Paramitas) là 6 pháp tu để giải trừ các khổ ách của Đại thừa Phật giáo.
(Xem: 5433)
Theo quan điểm của Đại hoàn thiện thì ánh sáng trong suốt hiển hiện một cách tự nhiên và được gọi là "hoàn-toàn-tốt"
(Xem: 5766)
Đức Phật ra đời vào năm 624 trước tây lịch tại nước Ấn Độ. Ngài thuyết pháp 49 năm. Phật giáo đã trở thành quốc giáo, vì các vua, các quan và dân chúng đa phần đều theo đạo Phật.
(Xem: 5914)
Y Kinh Kinh Cang Bát Nhã Ba La Mật: Đức Thế Tôn Như Lai hỏi ngài Tu Bồ Đề: Như Lainhục nhãn không? Ngài Tu Bồ Đề thưa:
(Xem: 6638)
Cuốn sách “Luân Hồi trong Lăng Kính Lăng Nghiêm” được ra mắt cách đây 9 năm (2008), in lần thứ hai, ba và tư vào năm 2012, 2014 & 2016 tại Nhà xuất bản Phương Đông, và năm nay (2018) cũng tại NXB Hồng Đức
(Xem: 6341)
điều chắc chắn là làm người, ai cũng có ý thức về tội lỗi. Điều này là không đúng, điều này là không tốt, điều này là không đẹp.
(Xem: 5975)
Tựa đề của khảo luận này phát xuất từ tồn nghi của một pháp hữu trong khi dịch lại bản kinh Tập (Sutta Nipāta) ở văn hệ Nikāya.
(Xem: 6358)
Khái niệm ‘nghiệp’, thật ra, đã có mặt trong văn học Bà-la-môn giáo từ rất lâu trước khi Đức Phật xuất hiện ở đời.
(Xem: 6001)
Vũ trụ, con người hình thành như thế nào và tương lai sẽ ra sao? Câu hỏi chưa bao giờ được xếp lại. Khoa học lượng tử luôn tiên phong...
(Xem: 6243)
rong lịch sử tư tưởng Ấn-độ, thuyết Trung đạo đã mang lại cho tư tưởng giới đương thời một không khí hoạt bát[1].
(Xem: 5486)
Bản chất của ánh sáng trong suốt, mang tính cách nền tảng và rạng ngời, là cội nguồn tối hậu của tất cả mọi cấp bậc tri thức...
(Xem: 6770)
Chánh Pháp là gì? Phật Pháp được chia thành ba thời kỳthời Chánh Pháp, thời Tượng Pháp, và thời Mạt Pháp.
(Xem: 4481)
Ông trị vì từ năm 269 TCN đến năm 232 TCN thuộc đời thứ 3 của triều đại Maurya. Đế chế của ông rộng lớn gần như tất cả tiểu lục địa Ấn Độ trãi dài từ Đông sang Tây.
(Xem: 7630)
Trong Kinh Kim Cang, Phật dạy có 4 tướng: “Ngã – Nhân – Chúng Sanh – Thọ Giả”. Khi còn phàm phu, chấp thân này là thật là bền vững,
(Xem: 5927)
Đạo Phật đang phát triển rộng rãi đến nhiều tầng lớp. Rất nhiều các bậc tri thức, các nhà khoa học chân chính, đến cả những người ...
(Xem: 7184)
Kiếp sống của mỗi con người sinh ra ở thế giới Ta Bà này, dù thọ mạngdài hay ngắn, nhìn chung có thể phân chia làm nhiều giai đoạn.
(Xem: 7595)
Kể từ thời điểm Phật giáo khai sinh và nở hoa khắp mọi miềnthế giới, hễ mỗi khi nói đến hình ảnh một vị Phật xuất hiện trong tương lai,
(Xem: 5397)
Phép luyện tập thiền định được hỗ trợ bởi sự thực thi các hành động vị tha, các hành động đó đồng thời cũng được thúc đẩy bởi tình thương yêu và lòng từ bi.
(Xem: 5036)
Nếu đủ sức duy trì một cách đúng đắn sự nhận biết tâm thức thần bí nhất thì kết quả mang lại từ phép luyện tập đó sẽ trợ lực các bạn rất nhiều
(Xem: 5546)
Thời-không vũ trụ chứa hàng triệu, tỉ, hàng ức cho đến không máy móc nào đếm hằng hà sa số hành tinh như trái đất mới biết con ngườimột sinh thể gần như bằng không.
(Xem: 5395)
Trong các bài kinh thuộc hệ A Hàm hay kinh Đại Bát Niết Bàn v.v… Phật có nói đến địa ngục. Đề Bà Đạt Đa, Tì kheo Thiện Tinh, vua Lưu Ly v.v… đều đọa vào địa ngục ngay khi chết.
(Xem: 5429)
Xét về niên đại, bản kinh có mặt ở thời Hậu Hán (23-220), xuất hiện trong Cao Tăng Truyện quahành trạng của ngài Nhiếp-ma-đằng (攝摩騰)[2].
(Xem: 4907)
Thể dạng lắng sâu thường xuyên bên trong tâm thức thần bí nhất chỉ có thể thực hiện được với những người có một khả năng thật bén nhạy.
(Xem: 4179)
Bài viết này sẽ khảo sát một số thắc mắc thường gặp về Thiền Tông, hy vọng sẽ tiện dụng cho một số độc giả còn nhiều nghi vấn.
(Xem: 5930)
Thức Thứ Tám hay A Lại Ya là thức chủ trong 8 thức. Thức nầy có nhiều cách gọi khác nhau để chỉ về nhiệm vụ của mình. Tựu chung thức nầy có 3 việc chính là: Năng tàng, Sở tàng và Ngã ái chấp tàng.
(Xem: 5539)
Khi còn vướng mắc trong sự tạo tác triền miên của khái niệm, chẳng hạn như suy nghĩ về cái đúng, cái sai, v.v. , thì các bạn sẽ không thể nào bước vào con đường tu tập về
(Xem: 6178)
Học phái dịch thuật xưa của Phật giáo Tây Tạng đưa ra nhiều cách luyện tập dựa vào các phương pháp khác biệt nhau, gọi là các "cỗ xe"/thừa.
(Xem: 8436)
Thần tài trong Phật giáo, cụ thểPhật giáo Bắc truyền đã vay mượn giữa hình ảnh Bố Đại hòa thượng và các truyền thuyết về thần tài Trung Hoa, để tổng hòa nên một vị thần tài có nguồn gốc ngoài Phật giáo.
(Xem: 5154)
Thời Đức Phật tại thế, Ấn Độít nhất mười sáu tiểu vương quốc, mỗi vương quốc đều có ngôn ngữ hay phương ngữ riêng, nhưng có lẽ người dân của mỗi nước đều có thể giao tiếp và hiểu nhau được.
(Xem: 5689)
Trong các kinh sách thừa hưởng từ [Phật giáo] Ấn Độ thì nguyên tắc căn bản đó lúc thì được gọi là "tâm thức tự tại
(Xem: 7297)
Kinh Hoa Nghiêm tiếng Sanskrit là Avatamsaka, tiếng Nhật là Kégon Kyo. Kinh nầy bằng tiếng Sanskrit do Bồ Tát Long Tho (Nagarjuna) soạn vào khoảng thế kỷ thứ 2 Tây Lịch.
(Xem: 6196)
Con người muốn có cuộc sống an lạchạnh phúc, cần phải tu nhơn tạo phước, chứ không phải chỉ cầu nguyện...
(Xem: 5833)
Phát huy sự chú tâm đúng đắn hướng vào một điểm nhằm mục đích gì? Việc luyện tập đó không nhất thiết là chỉ để giúp tâm thức đạt được một mức độ tập trung thật cao...
(Xem: 4659)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Nói Về Phật Giáo Ứng Dụng - Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5568)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường đức Phật...
(Xem: 5728)
Hàng ngày các Phật tử có thể “Xưng danh hiệu” hay “Niệm danh hiệu” của chư Phật, tức là đọc tên của chư Phật và tưởng nhớ đến các ngài.
(Xem: 6001)
Trong Phật giáo, giải thoát hay thoát khỏi luân hồi là một đề tài vô cùng lớn lao. Ngay cả những người Phật tử đã học qua giáo lý, cũng mường tượng sự giải thoát như ...
(Xem: 6485)
Như Lai có thể diễn tả những gì Ngài muốn bằng bất kỳ ngôn ngữ nào
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant