Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tin Sâu Nhân Quả

20 Tháng Bảy 201905:22(Xem: 4599)
Tin Sâu Nhân Quả
Tin Sâu Nhân Quả 

Hữu Huệ


Hạnh Của Đất

Luật nhân quả có lẽ ai cũng biết và hầu như ít nhiều ai cũng tin. Tuy nhiên, để có được niềm tin không lay chuyển vào quy luật tự nhiêncông bằng ấy thì lại không dễ, nhất là khi gặp phải những chuyện có vẻ nghịch lý trong cuộc sống, như tại sao người tốt thì chết yểu còn người ác lại sống dai…
Chuyện người tốt thì chết yểu còn người ác lại sống dai không có nghĩa là không có luật nhân quả. Phật dạy, việc sống dai hay chết yểu của con người chủ yếu do nghiệp báo (nhân chính của chết yểu là do sát sanh…) nhưng nghiệp báo cũng có nhiều loại hiện báo (hiện đời), sinh báo (đời sau), hậu báo (nhiều đời sau).

Mặt khác, yếu tố tâm sinh lý hiện tại cũng liên quan đến thọ hay yểu. Người làm ác nhưng tâm trạng họ thoải mái, vui vẻ và làm những điều họ thích. Tâm trạng “lạc quan” đó cũng góp phần làm sức khỏe của họ tốt hơn. Ngược lại, người không làm ác, sống có đạo đức nhưng tâm trạng thì lúc nào cũng lo âu, rầu rĩ, bực tức thì làm sao không chết sớm cho được. Ví dụ có người hàng xóm ăn trộm con gà. Anh ta thịt gà nấu cháo rồi thưởng thức. Ta biết được chuyện đó cảm thấy tức tối, rằng tại sao lại có hạng người làm việc xấu ác mà có thể phè phỡn như vậy được. Trong khi anh ta ăn xong rồi lên giường ngủ một giấc ngon lành tới sáng thì mình suốt đêm không ngủ vì chuyện của anh ta. Như vậy thì ai khổ hơn ai và ai bị hao mòn sức khỏe hơn ai?

Đọc lịch sử chúng ta cũng thấy những trung thần thường chết sớm, còn nịnh thần, gian thần thì cứ sống phây phây hoài. Bởi vì trung thần thì luôn để tâm lo cho dân cho nước, lúc nào cũng “Bui một tấc lòng ưu ái cũ. Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông” (Thuật hứng, Nguyễn Trãi) thì làm sao không hao tâm tổn khí. Trong khi đó bọn gian thần thì chỉ lo cho bản thângia đình họ, chỉ tính làm sao cho họ được vinh thân phì gia, thì làm sao không… tăng cân cho được. Có những trung thần vì không chịu đựng được những việc làm của nịnh thần tức đến hộc máu mà chết (ngày nay gọi là tai biến). Đối với người tu cũng vậy. Người phá giới thì ung dung tự tại, còn người giữ giới thì cứ bực bội hoài, rằng sao tu mà không giữ giới. Như vậy thì ai mau già hơn ai?

Trong kinh Đức Phật cũng dạy rằng có những bệnh do nghiệp, nhưng cũng có những bệnh do thời tiết, ăn uốnglối sống. Theo y học cổ truyền thì tính khí của con người ảnh hưởng rất lớn đến cơ thể. Như hoan hỷ quá thì ảnh hưởng đến tim, phẫn nộ ảnh hướng đến gan, ưu sầu ảnh hưởng đến phổi, lo sợ ảnh hưởng đến thận và căng thẳng ảnh hưởng đến dạ dày. Cho nên vấn đề không phải là người ác mà sống dai còn người hiền thì chết sớm mà một phần là do cách sống của họ tác động làm ảnh hưởng đến sức khỏe và tuổi thọ của họ.

Ở đây tôi không có ý rằng, mình cứ làm xấu, làm ác, miễn sao tâm trạng lúc nào cũng vui vẻ thoải mái là được, là sẽ có kết quả tốt. Tôi chỉ muốn nói rằng, chỉ làm người tốt không thôi chưa đủ mà còn phải hiểu mọi vấn đề cho rõ ràngđúng đắn. Mình còn bực tức nghĩa là sự tu dưỡng của mình chưa cao, chưa điều tiết được cảm xúc, chưa dứt trừ được phiền não tham sân si, và nhất là chưa tường tận luật nhân quả. Đức Phật không chỉ dạy chúng ta giữ giới mà còn dạy chúng ta tu tập thiền định và trí huệ. Làm người có đạo đức chỉ là bước đầu căn bản. Nếu không có sự tu dưỡng tính khí và thấu đạt nhơn tình thì người bị tổn thương có khi lại chính là mình. Cho nên đạo đức, thẳng thắn, cương trực là tốt nhưng “ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ” (Nguyễn Đình Chiểu), ghét cay ghét đắng đến nỗi nộ khí xung thiên hay u sầu uất hận thì không tốt.

Chúng ta phải biết và tin sâu rằng luật nhân quả không bao giờ sai chạy. Chiến thắng cuối cùng sẽ thuộc về chính nghĩa. Cái xấu, cái ác, cái gian có thể nhất thời lấn lướt cái tốt nhưng đó chỉ như sự tươi tốt bên ngoài của cái cây, còn bên trong của cái cây đó thì đang bị sâu đục, không thể nào tránh khỏi cái chết trong nay mai. Người có niềm tin sâu sắc vào nhân quả sẽ không bao giờ bị lung lay bởi những gì xảy ra trước mắt, những cái tưởng chừng như trái với luật nhân quả. Sự vận hành của luật nhân quả và nghiệp của chúng sinh không phải là điều mà phàm phu có thể biết hết được. Chính Đức Phật đã nói điều đó, rằng có bốn điều mà phàm phu không thể dùng trí óc mà nghĩ tới được. Dù có suy nghĩ đến bể đầu cũng không hiểu đến chỗ tận cùng của chúng. Bốn điều đó là cảnh giới của một vị Phật, cảnh giới của một A-la-hán, sự vận hành của quả dị thục (tức nghiệp) và cuối cùng là tâm tư thế giới. Điều mà chúng ta có thể làm và nên làm là tin rằng: Làm ác thì không bao giờ có kết quả hạnh phúc và làm thiện thì không bao giờ có thể đưa đến kết quả khổ đau. Đó là chân lý của vũ trụ.

Triết học Mác-Lenin nói rằng sự phát triển của sự vật, hiện tượng là theo hình xoắn trôn ốc, có xu hướng, khuynh hướng lặp lại giai đoạn đầu nhưng ở trình độ cao hơn. Nói cách khác là sự vật, hiện tượng nhìn có vẻ không phát triển hoặc thoái hóa nhưng thực chất là chúng đang tiến hóa. Điều này cũng không khác mấy với cách vận động của luật nhân quảnghiệp báo. Cái mà ta thấy chúng có vẻ trái với luật nhân quả nhưng kỳ thật là chúng đang đi rất đúng với quy luật tự nhiên rất công bằng này.

Ở gần nhà tôi hai gia đình rất trái ngược nhau. Gia đình A thì ăn ở hiền lành nhưng đủ ăn chứ không giàu, còn gia đình B thì giàu nhưng rất hung dữ. Gần đó có gia đình C rất nghèo, chồng bị tai biến, vợ buôn bán nhỏ và phải nuôi hai đứa con nhỏ, đành kêu bán nhà vì khó khăn. Lúc đầu bán cho gia đình A. Gia đình B biết được không muốn cho gia đình A mua được miếng đất gần đường lộ rất có giá trị đó nên đã trả giá cao hơn để mua. Gia đình A cũng không nói gì, hơn nữa còn mừng cho gia đình C vì đã bán được giá cao để có thêm tiền lo cho gia đình. Thế nhưng một thời gian sau thì chỗ đất đó bị giải tỏa và tiền đền bù thì không được bao nhiêu.

Riêng tôi, khi còn học ở Học viện PGVN tại TP.HCM (khóa VI, 2005-2009) thì trường có mở đợt thi Anh văn để cấp học bổng du học Ấn Độ. Lúc đó tôi không hay. Đến khi hay tin thì đã thi xong rồi. Tôi rất lấy làm tiếc, nghĩ sao mà mình kém phước quá. Sau khi học xong, tôi về chùa tu bình thường. Nghĩ rằng chắc mình chỉ có thể học tới đây thôi. Nhưng một năm sau thì có một Phật tử bên Mỹ về thăm quê hương. Qua nói chuyện biết được hoàn cảnh của tôi nên đã phát tâm tài trợ cho tôi du học Ấn Độ. Sau khi tôi học xong, vị Phật tử ấy vẫn tiếp tục ủng hộ tài vật cho tôi cho đến khi qua đời.

Tôi ngẫm nghĩ rằng nếu trước đây mình mà đi du học diện học bổng thì đâu có gặp được vị Phật tử này và đâu có được ủng hộ lâu dài như thế. Hơn nữa, nếu tôi qua Ấn Độ theo diện học bổng đợt đó thì việc học chưa chắc được thuận lợi như sau đó. Vì lúc đó các giáo sư đều đã có học trò nên việc tìm “seat” làm nghiên cứu sinh là vô cùng khó khăn. Chưa hết, tôi đã gặp được vị giáo sư rất tốt bụng và rất thương tôi, sẵn sàng giúp đỡ tôi mỗi khi tôi có việc cần. Nếu tôi qua trước đó thì rất có thể tôi sẽ không gặp được vị giáo sư tốt như vậy.

Cho nên nhiều khi mình mất cái này mà lại được cái kia còn tốt hơn cái này nữa. Không biết đó là phước của mình hay do mình ăn hiền ở lànhchư thiên hộ pháp gia hộ, nhưng tôi thấy mình thật may mắn. Tôi kể ra những chuyện này không có ý chê hay khen ai, mà chỉ để chia sẻ rằng mình cứ làm lành thì vận may sẽ tự an bài. Có những chuyện mình thấy vậy chứ không phải vậy. Người làm ác có khi thấy họ được cái lợi trước mắt nhưng cái họa đang chờ họ phía trước. Còn người làm lành thì nhiều khi gặp cái họa nhỏ là để tránh cái họa to hay mất điều tốt đẹp này để được điều tốt đẹp khác lớn hơn. Cho nên mọi người cần phải tin tưởng sâu sắc vào luật nhân quả. Luật gì cũng lách được nhưng luật nhân quả thì không bao giờ sai chạy dù chỉ một tơ hào.

Một lần có người hỏi tôi là có tin địa ngục không. Tôi trả lời “tin”. Họ hỏi rằng “thầy không thấy địa ngục sao tin là có”. Tôi trả lời rằng tôi không thấy nhưng địa ngục là do chính Đức Phật nói. Vì tôi tin Phật nên tin có địa ngục. Đối với vấn đề nhân quả nghiệp báo cũng vậy. Có thể chúng ta không nắm hết quy luật tự nhiên này nhưng vì điều này do Đức Phật dạy. Chúng ta tin Phật nên cũng tin nhân quả vậy. 

Hữu Huệ | Giác Ngộ
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1644)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1575)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1495)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1077)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1465)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1411)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1333)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1381)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1710)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1970)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1434)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1095)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1428)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 2023)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1470)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1552)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1389)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2904)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1375)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1409)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1722)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1680)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1632)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1476)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2643)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1603)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1613)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1404)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1423)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1616)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1562)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1444)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1428)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1520)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2202)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1547)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1509)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1620)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1837)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1533)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1411)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1668)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1422)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1698)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2380)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1471)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1953)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1681)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1760)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1619)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1955)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1685)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1441)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1729)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1582)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1548)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1337)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1254)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1297)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1527)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant