Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tin Sâu Nhân Quả

20 Tháng Bảy 201905:22(Xem: 4604)
Tin Sâu Nhân Quả
Tin Sâu Nhân Quả 

Hữu Huệ


Hạnh Của Đất

Luật nhân quả có lẽ ai cũng biết và hầu như ít nhiều ai cũng tin. Tuy nhiên, để có được niềm tin không lay chuyển vào quy luật tự nhiêncông bằng ấy thì lại không dễ, nhất là khi gặp phải những chuyện có vẻ nghịch lý trong cuộc sống, như tại sao người tốt thì chết yểu còn người ác lại sống dai…
Chuyện người tốt thì chết yểu còn người ác lại sống dai không có nghĩa là không có luật nhân quả. Phật dạy, việc sống dai hay chết yểu của con người chủ yếu do nghiệp báo (nhân chính của chết yểu là do sát sanh…) nhưng nghiệp báo cũng có nhiều loại hiện báo (hiện đời), sinh báo (đời sau), hậu báo (nhiều đời sau).

Mặt khác, yếu tố tâm sinh lý hiện tại cũng liên quan đến thọ hay yểu. Người làm ác nhưng tâm trạng họ thoải mái, vui vẻ và làm những điều họ thích. Tâm trạng “lạc quan” đó cũng góp phần làm sức khỏe của họ tốt hơn. Ngược lại, người không làm ác, sống có đạo đức nhưng tâm trạng thì lúc nào cũng lo âu, rầu rĩ, bực tức thì làm sao không chết sớm cho được. Ví dụ có người hàng xóm ăn trộm con gà. Anh ta thịt gà nấu cháo rồi thưởng thức. Ta biết được chuyện đó cảm thấy tức tối, rằng tại sao lại có hạng người làm việc xấu ác mà có thể phè phỡn như vậy được. Trong khi anh ta ăn xong rồi lên giường ngủ một giấc ngon lành tới sáng thì mình suốt đêm không ngủ vì chuyện của anh ta. Như vậy thì ai khổ hơn ai và ai bị hao mòn sức khỏe hơn ai?

Đọc lịch sử chúng ta cũng thấy những trung thần thường chết sớm, còn nịnh thần, gian thần thì cứ sống phây phây hoài. Bởi vì trung thần thì luôn để tâm lo cho dân cho nước, lúc nào cũng “Bui một tấc lòng ưu ái cũ. Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông” (Thuật hứng, Nguyễn Trãi) thì làm sao không hao tâm tổn khí. Trong khi đó bọn gian thần thì chỉ lo cho bản thângia đình họ, chỉ tính làm sao cho họ được vinh thân phì gia, thì làm sao không… tăng cân cho được. Có những trung thần vì không chịu đựng được những việc làm của nịnh thần tức đến hộc máu mà chết (ngày nay gọi là tai biến). Đối với người tu cũng vậy. Người phá giới thì ung dung tự tại, còn người giữ giới thì cứ bực bội hoài, rằng sao tu mà không giữ giới. Như vậy thì ai mau già hơn ai?

Trong kinh Đức Phật cũng dạy rằng có những bệnh do nghiệp, nhưng cũng có những bệnh do thời tiết, ăn uốnglối sống. Theo y học cổ truyền thì tính khí của con người ảnh hưởng rất lớn đến cơ thể. Như hoan hỷ quá thì ảnh hưởng đến tim, phẫn nộ ảnh hướng đến gan, ưu sầu ảnh hưởng đến phổi, lo sợ ảnh hưởng đến thận và căng thẳng ảnh hưởng đến dạ dày. Cho nên vấn đề không phải là người ác mà sống dai còn người hiền thì chết sớm mà một phần là do cách sống của họ tác động làm ảnh hưởng đến sức khỏe và tuổi thọ của họ.

Ở đây tôi không có ý rằng, mình cứ làm xấu, làm ác, miễn sao tâm trạng lúc nào cũng vui vẻ thoải mái là được, là sẽ có kết quả tốt. Tôi chỉ muốn nói rằng, chỉ làm người tốt không thôi chưa đủ mà còn phải hiểu mọi vấn đề cho rõ ràngđúng đắn. Mình còn bực tức nghĩa là sự tu dưỡng của mình chưa cao, chưa điều tiết được cảm xúc, chưa dứt trừ được phiền não tham sân si, và nhất là chưa tường tận luật nhân quả. Đức Phật không chỉ dạy chúng ta giữ giới mà còn dạy chúng ta tu tập thiền định và trí huệ. Làm người có đạo đức chỉ là bước đầu căn bản. Nếu không có sự tu dưỡng tính khí và thấu đạt nhơn tình thì người bị tổn thương có khi lại chính là mình. Cho nên đạo đức, thẳng thắn, cương trực là tốt nhưng “ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ” (Nguyễn Đình Chiểu), ghét cay ghét đắng đến nỗi nộ khí xung thiên hay u sầu uất hận thì không tốt.

Chúng ta phải biết và tin sâu rằng luật nhân quả không bao giờ sai chạy. Chiến thắng cuối cùng sẽ thuộc về chính nghĩa. Cái xấu, cái ác, cái gian có thể nhất thời lấn lướt cái tốt nhưng đó chỉ như sự tươi tốt bên ngoài của cái cây, còn bên trong của cái cây đó thì đang bị sâu đục, không thể nào tránh khỏi cái chết trong nay mai. Người có niềm tin sâu sắc vào nhân quả sẽ không bao giờ bị lung lay bởi những gì xảy ra trước mắt, những cái tưởng chừng như trái với luật nhân quả. Sự vận hành của luật nhân quả và nghiệp của chúng sinh không phải là điều mà phàm phu có thể biết hết được. Chính Đức Phật đã nói điều đó, rằng có bốn điều mà phàm phu không thể dùng trí óc mà nghĩ tới được. Dù có suy nghĩ đến bể đầu cũng không hiểu đến chỗ tận cùng của chúng. Bốn điều đó là cảnh giới của một vị Phật, cảnh giới của một A-la-hán, sự vận hành của quả dị thục (tức nghiệp) và cuối cùng là tâm tư thế giới. Điều mà chúng ta có thể làm và nên làm là tin rằng: Làm ác thì không bao giờ có kết quả hạnh phúc và làm thiện thì không bao giờ có thể đưa đến kết quả khổ đau. Đó là chân lý của vũ trụ.

Triết học Mác-Lenin nói rằng sự phát triển của sự vật, hiện tượng là theo hình xoắn trôn ốc, có xu hướng, khuynh hướng lặp lại giai đoạn đầu nhưng ở trình độ cao hơn. Nói cách khác là sự vật, hiện tượng nhìn có vẻ không phát triển hoặc thoái hóa nhưng thực chất là chúng đang tiến hóa. Điều này cũng không khác mấy với cách vận động của luật nhân quảnghiệp báo. Cái mà ta thấy chúng có vẻ trái với luật nhân quả nhưng kỳ thật là chúng đang đi rất đúng với quy luật tự nhiên rất công bằng này.

Ở gần nhà tôi hai gia đình rất trái ngược nhau. Gia đình A thì ăn ở hiền lành nhưng đủ ăn chứ không giàu, còn gia đình B thì giàu nhưng rất hung dữ. Gần đó có gia đình C rất nghèo, chồng bị tai biến, vợ buôn bán nhỏ và phải nuôi hai đứa con nhỏ, đành kêu bán nhà vì khó khăn. Lúc đầu bán cho gia đình A. Gia đình B biết được không muốn cho gia đình A mua được miếng đất gần đường lộ rất có giá trị đó nên đã trả giá cao hơn để mua. Gia đình A cũng không nói gì, hơn nữa còn mừng cho gia đình C vì đã bán được giá cao để có thêm tiền lo cho gia đình. Thế nhưng một thời gian sau thì chỗ đất đó bị giải tỏa và tiền đền bù thì không được bao nhiêu.

Riêng tôi, khi còn học ở Học viện PGVN tại TP.HCM (khóa VI, 2005-2009) thì trường có mở đợt thi Anh văn để cấp học bổng du học Ấn Độ. Lúc đó tôi không hay. Đến khi hay tin thì đã thi xong rồi. Tôi rất lấy làm tiếc, nghĩ sao mà mình kém phước quá. Sau khi học xong, tôi về chùa tu bình thường. Nghĩ rằng chắc mình chỉ có thể học tới đây thôi. Nhưng một năm sau thì có một Phật tử bên Mỹ về thăm quê hương. Qua nói chuyện biết được hoàn cảnh của tôi nên đã phát tâm tài trợ cho tôi du học Ấn Độ. Sau khi tôi học xong, vị Phật tử ấy vẫn tiếp tục ủng hộ tài vật cho tôi cho đến khi qua đời.

Tôi ngẫm nghĩ rằng nếu trước đây mình mà đi du học diện học bổng thì đâu có gặp được vị Phật tử này và đâu có được ủng hộ lâu dài như thế. Hơn nữa, nếu tôi qua Ấn Độ theo diện học bổng đợt đó thì việc học chưa chắc được thuận lợi như sau đó. Vì lúc đó các giáo sư đều đã có học trò nên việc tìm “seat” làm nghiên cứu sinh là vô cùng khó khăn. Chưa hết, tôi đã gặp được vị giáo sư rất tốt bụng và rất thương tôi, sẵn sàng giúp đỡ tôi mỗi khi tôi có việc cần. Nếu tôi qua trước đó thì rất có thể tôi sẽ không gặp được vị giáo sư tốt như vậy.

Cho nên nhiều khi mình mất cái này mà lại được cái kia còn tốt hơn cái này nữa. Không biết đó là phước của mình hay do mình ăn hiền ở lànhchư thiên hộ pháp gia hộ, nhưng tôi thấy mình thật may mắn. Tôi kể ra những chuyện này không có ý chê hay khen ai, mà chỉ để chia sẻ rằng mình cứ làm lành thì vận may sẽ tự an bài. Có những chuyện mình thấy vậy chứ không phải vậy. Người làm ác có khi thấy họ được cái lợi trước mắt nhưng cái họa đang chờ họ phía trước. Còn người làm lành thì nhiều khi gặp cái họa nhỏ là để tránh cái họa to hay mất điều tốt đẹp này để được điều tốt đẹp khác lớn hơn. Cho nên mọi người cần phải tin tưởng sâu sắc vào luật nhân quả. Luật gì cũng lách được nhưng luật nhân quả thì không bao giờ sai chạy dù chỉ một tơ hào.

Một lần có người hỏi tôi là có tin địa ngục không. Tôi trả lời “tin”. Họ hỏi rằng “thầy không thấy địa ngục sao tin là có”. Tôi trả lời rằng tôi không thấy nhưng địa ngục là do chính Đức Phật nói. Vì tôi tin Phật nên tin có địa ngục. Đối với vấn đề nhân quả nghiệp báo cũng vậy. Có thể chúng ta không nắm hết quy luật tự nhiên này nhưng vì điều này do Đức Phật dạy. Chúng ta tin Phật nên cũng tin nhân quả vậy. 

Hữu Huệ | Giác Ngộ
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9337)
Bốn cấp độ thiền định hay tứ thiền là bốn mức thiền khi hành giả thực hành thiền có thể đạt được.
(Xem: 6398)
Một bào thai sở dĩ có mặt trên cuộc đời này ngoài yếu tố chính là do cha mẹ sinh ra, còn là kết quả của một tiến trình không đơn giản.
(Xem: 5966)
Đạo Phật là nguồn sống và lẽ sống của con người, là cương lĩnh cho nhân thế. Với sứ mạng thiêng liêng cao đẹp ấy, đạo Phật không xa lìa thực thể khổ đau của con người.
(Xem: 7479)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc
(Xem: 7300)
Người ta thường nói đạo Phật là đạo của từ bitrí tuệ. Đối với nhiều người Phật tử, từ bi là quan trọng hơn cả, và nếu khôngtừ bi thì không có đạo Phật.
(Xem: 5178)
Các nhà khảo cổ đang nghiên cứu tại Nepal đã phát hiện bằng chứng về một kiến trúc tại nơi sinh ra Đức Phật có niên đại thế kỷ thứ 6 trước công nguyên.
(Xem: 8053)
Theo Đức Phật, tất cả những vật hiện hữu đều biến chuyển không ngừng. Sự biến chuyển này thì vô thuỷ vô chung. Nguồn gốc của vũ trụ không do một Đấng Sáng tạo (Creator God) tạo ra.
(Xem: 5911)
Đức Phật đản sanh vào năm 624 trước Công nguyên. Theo lý giải của Phật Giáo Nam Tông thì Đức Phật sanh ngày Rằm tháng Tư Âm lịch.
(Xem: 9569)
Nếu bạn say mê đọc kinh Phật, ưa thích những phân tích kỹ càng về giáo điển, muốn tìm hiểu các chuyện xảy ra thời Đức Phật đi giảng dạy nơi này và nơi kia, hiển nhiên đây là một tác giả bạn không thể bỏ qua
(Xem: 7371)
Tánh Không là một trong những khái niệm quan trọng và khó thấu triệt nhất trong giáo lý Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 7363)
Nguyên bản: Meditating while dying; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6198)
Ba Mươi Hai Cách ứng hiện của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Bởi vì Quan Thế Âm Bồ Tát đồng một Sức Từ với đức Phật Như Lai cho nên ngài ứng hiện ra 32 thân, vào các quốc độđộ thoát chúng sanh
(Xem: 5296)
Thể tánh của tâm là pháp giới thể tánh, bởi vì nếu không như vậy thì tâm không bao giờ có thể hiểu biết, chứng ngộ pháp giới thể tánh.
(Xem: 5844)
Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là một khái niệm thu hút nhiều sự quan tâm của học giới từ phương Tây cho đến phương Đông
(Xem: 5644)
Thuật ngữ pháp (dharma, có căn động tự là dhṛ có nghĩa là “duy trì, nắm giữ”; Pāli: dhamma; Tây Tạng: chos) mang nhiều ý nghĩa và ...
(Xem: 3951)
Trì danh là pháp tu Tịnh Độ phổ thông nhứt hiện nay. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, có Mười cách trì danh khác nhau
(Xem: 5676)
Phật dạy tất cả pháp hữu vi đều là vô thường sanh diệt không bền vững, như vậy thìthế gian cái gì có tạo tác có biến đổi đều là vô bền chắc.
(Xem: 4070)
Nguyên bản: Removing obstacles to a favorable death; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7506)
Mối liên hệ giữa hình thức sớm nhất của Phật giáo và những truyền thống khác mà chúng đã phát triển về sau là một vấn đề luôn tái diễn trong lịch sử tư tưởngPhật giáo.
(Xem: 5708)
Nghiệp và Luân hồi là hai ý niệm đã có trong Ấn độ giáo, được giảng giải trong các Kinh Veda và Upanishad vào khoảng 1500 năm trước CN.
(Xem: 21871)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 5591)
Mục tiêu cao cả của đạo Phật là dạy con người tu tập để thoát khổ, giác ngộgiải thoát.
(Xem: 7032)
Phật giáo du nhập Nhật Bản vào thế kỷ thứ VI, sau đó trải qua thời kì Nara (710~785), thời kì Heian (794~1192) cho đến thời kì Kamakura (1192~1380), trước sau khoảng 700 năm, rồi phát sinh rất nhiều tông phái.
(Xem: 5002)
Tổ Quy Sơn dặn: “Nói ra lời nào phải liên hệ với kinh điển. Đàm luận gì, phải xét lại lời người xưa”.
(Xem: 6430)
Nhiều học giả phân vân là làm thế nào và tại sao những nhà Đại chúng bộ (Mahāsāṅghika) đã hình thành nên khái niệm về một Đức Phật siêu việt...
(Xem: 5790)
Hoa Sen Diệu Phápgiáo pháp được thuyết giảng trong Kinh Pháp Hoa. Quang Trạch giải thích Diệu Pháp là nhân của đạo Nhất Thừa, là quả của đạo Nhất Thừa.
(Xem: 4998)
Con người sống qui tụ lại thành một xã hội, và phát triển tập thể này rộng lớn dần dần thành một quốc gia.
(Xem: 7043)
Trước khi xác định Phật Giáo như là một hệ thống tư tưởng triết học (Buddhism as a philosophy) hay như là một tôn giáo (Buddhism as a religion), chúng ta sẽ tìm hiểu triết học là gì ? và Phật giáo là gì ?
(Xem: 6033)
Lục độ Ba-la-mật-đa/ Sáu phương pháp tu Ba-la-mật-đa (Six Paramitas) là 6 pháp tu để giải trừ các khổ ách của Đại thừa Phật giáo.
(Xem: 5552)
Theo quan điểm của Đại hoàn thiện thì ánh sáng trong suốt hiển hiện một cách tự nhiên và được gọi là "hoàn-toàn-tốt"
(Xem: 5858)
Đức Phật ra đời vào năm 624 trước tây lịch tại nước Ấn Độ. Ngài thuyết pháp 49 năm. Phật giáo đã trở thành quốc giáo, vì các vua, các quan và dân chúng đa phần đều theo đạo Phật.
(Xem: 5989)
Y Kinh Kinh Cang Bát Nhã Ba La Mật: Đức Thế Tôn Như Lai hỏi ngài Tu Bồ Đề: Như Lainhục nhãn không? Ngài Tu Bồ Đề thưa:
(Xem: 6806)
Cuốn sách “Luân Hồi trong Lăng Kính Lăng Nghiêm” được ra mắt cách đây 9 năm (2008), in lần thứ hai, ba và tư vào năm 2012, 2014 & 2016 tại Nhà xuất bản Phương Đông, và năm nay (2018) cũng tại NXB Hồng Đức
(Xem: 6422)
điều chắc chắn là làm người, ai cũng có ý thức về tội lỗi. Điều này là không đúng, điều này là không tốt, điều này là không đẹp.
(Xem: 6069)
Tựa đề của khảo luận này phát xuất từ tồn nghi của một pháp hữu trong khi dịch lại bản kinh Tập (Sutta Nipāta) ở văn hệ Nikāya.
(Xem: 6458)
Khái niệm ‘nghiệp’, thật ra, đã có mặt trong văn học Bà-la-môn giáo từ rất lâu trước khi Đức Phật xuất hiện ở đời.
(Xem: 6137)
Vũ trụ, con người hình thành như thế nào và tương lai sẽ ra sao? Câu hỏi chưa bao giờ được xếp lại. Khoa học lượng tử luôn tiên phong...
(Xem: 6339)
rong lịch sử tư tưởng Ấn-độ, thuyết Trung đạo đã mang lại cho tư tưởng giới đương thời một không khí hoạt bát[1].
(Xem: 5582)
Bản chất của ánh sáng trong suốt, mang tính cách nền tảng và rạng ngời, là cội nguồn tối hậu của tất cả mọi cấp bậc tri thức...
(Xem: 6889)
Chánh Pháp là gì? Phật Pháp được chia thành ba thời kỳthời Chánh Pháp, thời Tượng Pháp, và thời Mạt Pháp.
(Xem: 4554)
Ông trị vì từ năm 269 TCN đến năm 232 TCN thuộc đời thứ 3 của triều đại Maurya. Đế chế của ông rộng lớn gần như tất cả tiểu lục địa Ấn Độ trãi dài từ Đông sang Tây.
(Xem: 7765)
Trong Kinh Kim Cang, Phật dạy có 4 tướng: “Ngã – Nhân – Chúng Sanh – Thọ Giả”. Khi còn phàm phu, chấp thân này là thật là bền vững,
(Xem: 6007)
Đạo Phật đang phát triển rộng rãi đến nhiều tầng lớp. Rất nhiều các bậc tri thức, các nhà khoa học chân chính, đến cả những người ...
(Xem: 7261)
Kiếp sống của mỗi con người sinh ra ở thế giới Ta Bà này, dù thọ mạngdài hay ngắn, nhìn chung có thể phân chia làm nhiều giai đoạn.
(Xem: 7690)
Kể từ thời điểm Phật giáo khai sinh và nở hoa khắp mọi miềnthế giới, hễ mỗi khi nói đến hình ảnh một vị Phật xuất hiện trong tương lai,
(Xem: 5485)
Phép luyện tập thiền định được hỗ trợ bởi sự thực thi các hành động vị tha, các hành động đó đồng thời cũng được thúc đẩy bởi tình thương yêu và lòng từ bi.
(Xem: 5136)
Nếu đủ sức duy trì một cách đúng đắn sự nhận biết tâm thức thần bí nhất thì kết quả mang lại từ phép luyện tập đó sẽ trợ lực các bạn rất nhiều
(Xem: 5642)
Thời-không vũ trụ chứa hàng triệu, tỉ, hàng ức cho đến không máy móc nào đếm hằng hà sa số hành tinh như trái đất mới biết con ngườimột sinh thể gần như bằng không.
(Xem: 5504)
Trong các bài kinh thuộc hệ A Hàm hay kinh Đại Bát Niết Bàn v.v… Phật có nói đến địa ngục. Đề Bà Đạt Đa, Tì kheo Thiện Tinh, vua Lưu Ly v.v… đều đọa vào địa ngục ngay khi chết.
(Xem: 5513)
Xét về niên đại, bản kinh có mặt ở thời Hậu Hán (23-220), xuất hiện trong Cao Tăng Truyện quahành trạng của ngài Nhiếp-ma-đằng (攝摩騰)[2].
(Xem: 5007)
Thể dạng lắng sâu thường xuyên bên trong tâm thức thần bí nhất chỉ có thể thực hiện được với những người có một khả năng thật bén nhạy.
(Xem: 4253)
Bài viết này sẽ khảo sát một số thắc mắc thường gặp về Thiền Tông, hy vọng sẽ tiện dụng cho một số độc giả còn nhiều nghi vấn.
(Xem: 6032)
Thức Thứ Tám hay A Lại Ya là thức chủ trong 8 thức. Thức nầy có nhiều cách gọi khác nhau để chỉ về nhiệm vụ của mình. Tựu chung thức nầy có 3 việc chính là: Năng tàng, Sở tàng và Ngã ái chấp tàng.
(Xem: 5623)
Khi còn vướng mắc trong sự tạo tác triền miên của khái niệm, chẳng hạn như suy nghĩ về cái đúng, cái sai, v.v. , thì các bạn sẽ không thể nào bước vào con đường tu tập về
(Xem: 6276)
Học phái dịch thuật xưa của Phật giáo Tây Tạng đưa ra nhiều cách luyện tập dựa vào các phương pháp khác biệt nhau, gọi là các "cỗ xe"/thừa.
(Xem: 8522)
Thần tài trong Phật giáo, cụ thểPhật giáo Bắc truyền đã vay mượn giữa hình ảnh Bố Đại hòa thượng và các truyền thuyết về thần tài Trung Hoa, để tổng hòa nên một vị thần tài có nguồn gốc ngoài Phật giáo.
(Xem: 5229)
Thời Đức Phật tại thế, Ấn Độít nhất mười sáu tiểu vương quốc, mỗi vương quốc đều có ngôn ngữ hay phương ngữ riêng, nhưng có lẽ người dân của mỗi nước đều có thể giao tiếp và hiểu nhau được.
(Xem: 5786)
Trong các kinh sách thừa hưởng từ [Phật giáo] Ấn Độ thì nguyên tắc căn bản đó lúc thì được gọi là "tâm thức tự tại
(Xem: 7410)
Kinh Hoa Nghiêm tiếng Sanskrit là Avatamsaka, tiếng Nhật là Kégon Kyo. Kinh nầy bằng tiếng Sanskrit do Bồ Tát Long Tho (Nagarjuna) soạn vào khoảng thế kỷ thứ 2 Tây Lịch.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant