Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tiến Trình Hoạt Động Của Tâm

20 Tháng Bảy 201904:19(Xem: 4629)
Tiến Trình Hoạt Động Của Tâm
Tiến Trình Hoạt Động Của Tâm
Thích Minh Chánh chuyển ngữ

          Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi  đang  ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức ( bhavaïga, tiềm thức, tâm hộ kiếp). Chúng ta luôn kinh qua một trạng thái tiêu cực như vậy khi tâm mình phản ứng lại các đối tượng bên ngoài. Dòng chảy vô thức  (bhavaïga) này bị gián đoạn khi các đối tượng thâm nhập vào tâm. Kế đó, tâm vô thức (bhavaṅga) rung động trong một chóc lát ý tưởng và biến mất.

          Do vậy, ngũ môn hướng tâm[1] (pañcadvārāvajjana) sanh khởihoại diệt. Trong giai đoạn này, dòng chảy vô thức tự nhiên bị kiềm chế và hướng về đối tượng. Ngay lập tức, sau đó, nhãn thức[2] (cakkhuviññāṇa), cái biết của con mắt) sanh khởihoại diệt, nhưng nó không hiểu biết gì hơn ngoài việc thấy đối tượng. Hoạt động cảm giác này được theo sau bởi một sự tiếp thu về đối tượng đã nhìn nhận(sampaṭicchana) trong chóc lát, hay còn gọi là Tiếp thọ tâm[3]. Từ đó, đưa đến khả năng dò xét, thẩm tra (santãraõa) hoặc sự nghiên cứu nhất thời về đối tượng đã tiếp nhận, hay còn gọi là Suy đặc tâm[4]. Kế tiếp, đưa đến giai đoạn nhận định mô tả, được gọi là Xác định tâm[5] (votthapana). Do đó, sự phân biệt được thực hiện trong giai đoạn này. Đây là thời điểm mà ý thức góp phần tham dự theo lãnh vực của nó.

Sau đó, ngay lập tức, có một giai đoạn tâm tâm lý quan trọng nhất được gọi xung lục (động lực thúc đẩy) hay Tốc hành tâm[6] (Javana) sanh khởi. Đây là giai đoạn mà một hành động được đánh giá là thiện hay bất thiện. Theo đó, nghiệp (kamma) được tạo ra trong giai đoạn này; nếu nhìn nhận đúng đắn (yoniso manasikàra) thì xung lực (Janava) trở nên thiện lành (thiện); nếu nhìn nhận sai lầm (ayoniso manasikàra) thì xung lực trở nên xấu ác( bất thiện). Trong trường hợp của một vị A-la-hán (Arahant), thì xung lực (javana) này không phải thiện cũng không phải bất thiện, mà chỉ là chức năng (kiriya). Giai đoạn xung lực này luôn luôn trãi qua bảy sát-na (trong chóc lát) tư tưởng hoặc lúc chết, nó chỉ trãi qua năm sát-na tư tưởng. Toàn bộ tiến trình xảy ra trong một thời gian ngắn và kết thức bằng tâm ghi nhận hay tâm đăng kí (tadàlambana) trãi qua hai sát-na tư tưởng . Như vậy, để hoàn tất một tiến trình tư tưởng, cần phải trãi qua 17 sát-na tâm (chập tư tưởng).

          Ba loại tâm hộ kiếp (bhavaïga) này là tâm quả (vipàka). Chúng là một trong hai sát-na suy lường phân tích (suy đặc tâm, santãraõa cittas) cùng sanh khởi với thọ xã (sự buông bỏ) mà đã được đề cập đến ở trên, hoặc một trong tám loại tâm hành tuyệt mỹ (sobhana vipàka cittas, Duy tác tịnh quang tâm), sẽ được trình bày trong phần sau (đoạn 6). Ngũ môn hướng tâm (pañcadvārāvajjana) là một tâm hành (kiriyā citta). Năm thức ( pañca viññāṇa: nhãn, nhỉ, tỉ, thiệt, thân thức) là một trong mười tâm quả (vipāka cittas) thiện và bất thiện. Tiếp thọ tâm (sampaṭicchana) và suy đặc tâm (santīraṇa) cũng là tâm quả (vipāka cittas). Ý môn hướng tâm (manodvārāvajjana) là một tâm hành (kiriyā citta) có chức năng như xác định tâm (votthapana). Chúng ta có thể ứng dụng ý chí tự do của mình trong giai đoạn này. Bảy sát-na tư tưởng của xung lực ấy tạo nên nghiệp (kamma). Đăng kí tâm (tadālambana) là một loại tâm quả (cipāka citta), là một trong ba loại suy đặc tâm (santīraṇa citta), hoặc là một trong tám tâm quả tuyệt mỹ (sobhana vipāka cittas).

          Như vậy, trong một tiến trình tư tưởng đặc biệt, có nhiều sát-na suy nghỉ sanh khởi và chúng được gọi là nghiệp (kamma), quả (vipāka), hay hành (kiriyā).

          Tiến trình của tâm—theo Vi Diệu Pháp (Abhidhamma), khi một đối tượng xuất hiện trong tâm thông qua một trong năm giác quan, thì tiến trình ấy hoạt động như các biểu đồ sau..

          Biểu đồ 1 

Sát-na tâm

 

1

Atīta Bhavaṅga (Bhavaṅga vừa qua)

2

Bhavaṅga Calana (Bhavaṅga giao động)

3

Bhavaṅgupaccheda (Bhavaṅga dứt dòng)

4

Pañcadvārāvajjana (Ngũ Môn Hướng Tâm)

5

Pañca Viññāṇa (Ngũ Quan Thức)

6

Sampaṭicchana (Tiếp Thọ Tâm)

7

Santīraṇa (Suy Đạc Tâm)

8

Votthapana (Xác Định Tâm)

9

Javana (Xung Lực)

10

11

12

13

14

15

16

Tadālambana (Đăng Ký Tâm)

17

 

 Biểu Đồ 2

Citta - 89 
Tâm

Lokuttara - 8 
Siêu thế

Magga - 4 
Đạo

Phala - 4 
Quả

Arūpāvacara - 12 
Vô sắc giới

Kusala - 4 
Thiện

Vipāka - 4 
Quả

Kriyā - 4 
Hành

Rūpāvacāra - 15 
Sắc giới

Kusala - 5 
Thiện

Vipāka - 5 
Quả

Kriyā - 5 
Hành

Kāmāvacāra - 54 
Dục giới

Sobhaha - 24 
Đẹp

Kusala - 8 
Thiện

Vipāka - 8 
Quả

Kriyā - 8 
Hành

Ahetula - 18 
Vô nhân

Ākusalavipāka - 7 
Quả bất thiện

Kusalavipāka - 8 
Quả thiện

Kriyā - 3 
Hành

Akusala - 12 
Bất thiện

Lobha - 8 
Căn tham

Paṭigha - 2 
Căn sân

Moha - 2 
Căn si

 

 Biểu Đồ 3

Citta - 89 (121) 
Tâm

Akusala - 12 
Bất thiện

Kusala - 21 (37) 
Thiện

Kāmāvacara - 8 
Dục giới

Rūpāvacara - 5 
Sắc giới

Arūpāvacara - 4 
Vô sắc giới

Lokuttara - 4 (20) 
Siêu thế

Vipāka - 36 (52) 
Quả

Kāmāvacara - 23 
Dục giới

Rūpāvacara - 5 
Sắc giới

Arūpāvacara - 4 
Vô sắc giới

Lokuttara - 4 (20) 
Siêu thế

Kriyā - 20 
Hành

Kāmāvacara - 11 
Dục giới

Rūpāvacara - 5 
Sắc giới

Arūpāvacara - 4 
Vô sắc giới

         

 



[1] Ngũ môn hướng tâm chỉ là phản xạ tự nhiên của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân trên đối tượng tương ứngCụ thể như khi một người nằm ngủ, bỗng có tiếng động làm anh ta giật mình, toàn thân người ấy bị đánh thức và hướng đến đối tượng. Nhưng thật ra vì là tiếng động nên chỉ có nhĩ môn thật sự hướng đến đối tượng. Nếu là hình ảnh thì nhãn môn hướng đến, nếu là sự đụng chạm thì thân môn hướng đến v.v...

[2] Nhãn Thức: nếu đối tượng là sắc pháp (rupa), thì thức này phụ thuộc vào năm đối tượng của giác quan.

[3] Tiếp thọ tâm: sau khi một trong 5 thức khởi lên thì tâm tiếp nhận đối tượng. Giả sử như nhãn thứckhởi lên thì sự tiếp nhận sẽ giống như chiếc máy hình bấm nút để thu hình.

[4] Suy đặc tâm: sau khi thu hình vào, đây là lấy mắt làm điển hình, thì nó hiện lên trên phim (ví dụ máy hình) từng chi tiết của đối tượng, giai đoạn này mang tính phân tích.

[5] Xác định tâm: sau khi ghi nhận từng chi tiết một cách phân tích, tâm bắt đầu tổng hợp các chi tiết để hình thành toàn diện đối tượng, và xác định đó là hình gì.

[6] Tốc hành tâm: là giai đoạn quan trọng hình thành sự tạo tác của tâm kéo dài đến 7 sát-na. Nó chính là hành trong ngũ uẩn. Hầu hết các tâm sở quần tụ ở đây tùy theo tính chất thiện, bất thiệnbất động hay siêu thế tâm. Mạt-na thức nằm trong tốc hành tâm này.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9194)
Nếu bạn say mê đọc kinh Phật, ưa thích những phân tích kỹ càng về giáo điển, muốn tìm hiểu các chuyện xảy ra thời Đức Phật đi giảng dạy nơi này và nơi kia, hiển nhiên đây là một tác giả bạn không thể bỏ qua
(Xem: 7215)
Tánh Không là một trong những khái niệm quan trọng và khó thấu triệt nhất trong giáo lý Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 7107)
Nguyên bản: Meditating while dying; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6023)
Ba Mươi Hai Cách ứng hiện của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Bởi vì Quan Thế Âm Bồ Tát đồng một Sức Từ với đức Phật Như Lai cho nên ngài ứng hiện ra 32 thân, vào các quốc độđộ thoát chúng sanh
(Xem: 5177)
Thể tánh của tâm là pháp giới thể tánh, bởi vì nếu không như vậy thì tâm không bao giờ có thể hiểu biết, chứng ngộ pháp giới thể tánh.
(Xem: 5693)
Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là một khái niệm thu hút nhiều sự quan tâm của học giới từ phương Tây cho đến phương Đông
(Xem: 5505)
Thuật ngữ pháp (dharma, có căn động tự là dhṛ có nghĩa là “duy trì, nắm giữ”; Pāli: dhamma; Tây Tạng: chos) mang nhiều ý nghĩa và ...
(Xem: 3879)
Trì danh là pháp tu Tịnh Độ phổ thông nhứt hiện nay. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, có Mười cách trì danh khác nhau
(Xem: 5562)
Phật dạy tất cả pháp hữu vi đều là vô thường sanh diệt không bền vững, như vậy thìthế gian cái gì có tạo tác có biến đổi đều là vô bền chắc.
(Xem: 3986)
Nguyên bản: Removing obstacles to a favorable death; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7302)
Mối liên hệ giữa hình thức sớm nhất của Phật giáo và những truyền thống khác mà chúng đã phát triển về sau là một vấn đề luôn tái diễn trong lịch sử tư tưởngPhật giáo.
(Xem: 5617)
Nghiệp và Luân hồi là hai ý niệm đã có trong Ấn độ giáo, được giảng giải trong các Kinh Veda và Upanishad vào khoảng 1500 năm trước CN.
(Xem: 21643)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 5481)
Mục tiêu cao cả của đạo Phật là dạy con người tu tập để thoát khổ, giác ngộgiải thoát.
(Xem: 6863)
Phật giáo du nhập Nhật Bản vào thế kỷ thứ VI, sau đó trải qua thời kì Nara (710~785), thời kì Heian (794~1192) cho đến thời kì Kamakura (1192~1380), trước sau khoảng 700 năm, rồi phát sinh rất nhiều tông phái.
(Xem: 4905)
Tổ Quy Sơn dặn: “Nói ra lời nào phải liên hệ với kinh điển. Đàm luận gì, phải xét lại lời người xưa”.
(Xem: 6301)
Nhiều học giả phân vân là làm thế nào và tại sao những nhà Đại chúng bộ (Mahāsāṅghika) đã hình thành nên khái niệm về một Đức Phật siêu việt...
(Xem: 5647)
Hoa Sen Diệu Phápgiáo pháp được thuyết giảng trong Kinh Pháp Hoa. Quang Trạch giải thích Diệu Pháp là nhân của đạo Nhất Thừa, là quả của đạo Nhất Thừa.
(Xem: 4896)
Con người sống qui tụ lại thành một xã hội, và phát triển tập thể này rộng lớn dần dần thành một quốc gia.
(Xem: 6930)
Trước khi xác định Phật Giáo như là một hệ thống tư tưởng triết học (Buddhism as a philosophy) hay như là một tôn giáo (Buddhism as a religion), chúng ta sẽ tìm hiểu triết học là gì ? và Phật giáo là gì ?
(Xem: 5932)
Lục độ Ba-la-mật-đa/ Sáu phương pháp tu Ba-la-mật-đa (Six Paramitas) là 6 pháp tu để giải trừ các khổ ách của Đại thừa Phật giáo.
(Xem: 5428)
Theo quan điểm của Đại hoàn thiện thì ánh sáng trong suốt hiển hiện một cách tự nhiên và được gọi là "hoàn-toàn-tốt"
(Xem: 5761)
Đức Phật ra đời vào năm 624 trước tây lịch tại nước Ấn Độ. Ngài thuyết pháp 49 năm. Phật giáo đã trở thành quốc giáo, vì các vua, các quan và dân chúng đa phần đều theo đạo Phật.
(Xem: 5905)
Y Kinh Kinh Cang Bát Nhã Ba La Mật: Đức Thế Tôn Như Lai hỏi ngài Tu Bồ Đề: Như Lainhục nhãn không? Ngài Tu Bồ Đề thưa:
(Xem: 6634)
Cuốn sách “Luân Hồi trong Lăng Kính Lăng Nghiêm” được ra mắt cách đây 9 năm (2008), in lần thứ hai, ba và tư vào năm 2012, 2014 & 2016 tại Nhà xuất bản Phương Đông, và năm nay (2018) cũng tại NXB Hồng Đức
(Xem: 6335)
điều chắc chắn là làm người, ai cũng có ý thức về tội lỗi. Điều này là không đúng, điều này là không tốt, điều này là không đẹp.
(Xem: 5968)
Tựa đề của khảo luận này phát xuất từ tồn nghi của một pháp hữu trong khi dịch lại bản kinh Tập (Sutta Nipāta) ở văn hệ Nikāya.
(Xem: 6349)
Khái niệm ‘nghiệp’, thật ra, đã có mặt trong văn học Bà-la-môn giáo từ rất lâu trước khi Đức Phật xuất hiện ở đời.
(Xem: 5989)
Vũ trụ, con người hình thành như thế nào và tương lai sẽ ra sao? Câu hỏi chưa bao giờ được xếp lại. Khoa học lượng tử luôn tiên phong...
(Xem: 6234)
rong lịch sử tư tưởng Ấn-độ, thuyết Trung đạo đã mang lại cho tư tưởng giới đương thời một không khí hoạt bát[1].
(Xem: 5483)
Bản chất của ánh sáng trong suốt, mang tính cách nền tảng và rạng ngời, là cội nguồn tối hậu của tất cả mọi cấp bậc tri thức...
(Xem: 6763)
Chánh Pháp là gì? Phật Pháp được chia thành ba thời kỳthời Chánh Pháp, thời Tượng Pháp, và thời Mạt Pháp.
(Xem: 4475)
Ông trị vì từ năm 269 TCN đến năm 232 TCN thuộc đời thứ 3 của triều đại Maurya. Đế chế của ông rộng lớn gần như tất cả tiểu lục địa Ấn Độ trãi dài từ Đông sang Tây.
(Xem: 7626)
Trong Kinh Kim Cang, Phật dạy có 4 tướng: “Ngã – Nhân – Chúng Sanh – Thọ Giả”. Khi còn phàm phu, chấp thân này là thật là bền vững,
(Xem: 5919)
Đạo Phật đang phát triển rộng rãi đến nhiều tầng lớp. Rất nhiều các bậc tri thức, các nhà khoa học chân chính, đến cả những người ...
(Xem: 7177)
Kiếp sống của mỗi con người sinh ra ở thế giới Ta Bà này, dù thọ mạngdài hay ngắn, nhìn chung có thể phân chia làm nhiều giai đoạn.
(Xem: 7585)
Kể từ thời điểm Phật giáo khai sinh và nở hoa khắp mọi miềnthế giới, hễ mỗi khi nói đến hình ảnh một vị Phật xuất hiện trong tương lai,
(Xem: 5392)
Phép luyện tập thiền định được hỗ trợ bởi sự thực thi các hành động vị tha, các hành động đó đồng thời cũng được thúc đẩy bởi tình thương yêu và lòng từ bi.
(Xem: 5030)
Nếu đủ sức duy trì một cách đúng đắn sự nhận biết tâm thức thần bí nhất thì kết quả mang lại từ phép luyện tập đó sẽ trợ lực các bạn rất nhiều
(Xem: 5537)
Thời-không vũ trụ chứa hàng triệu, tỉ, hàng ức cho đến không máy móc nào đếm hằng hà sa số hành tinh như trái đất mới biết con ngườimột sinh thể gần như bằng không.
(Xem: 5391)
Trong các bài kinh thuộc hệ A Hàm hay kinh Đại Bát Niết Bàn v.v… Phật có nói đến địa ngục. Đề Bà Đạt Đa, Tì kheo Thiện Tinh, vua Lưu Ly v.v… đều đọa vào địa ngục ngay khi chết.
(Xem: 5420)
Xét về niên đại, bản kinh có mặt ở thời Hậu Hán (23-220), xuất hiện trong Cao Tăng Truyện quahành trạng của ngài Nhiếp-ma-đằng (攝摩騰)[2].
(Xem: 4902)
Thể dạng lắng sâu thường xuyên bên trong tâm thức thần bí nhất chỉ có thể thực hiện được với những người có một khả năng thật bén nhạy.
(Xem: 4176)
Bài viết này sẽ khảo sát một số thắc mắc thường gặp về Thiền Tông, hy vọng sẽ tiện dụng cho một số độc giả còn nhiều nghi vấn.
(Xem: 5923)
Thức Thứ Tám hay A Lại Ya là thức chủ trong 8 thức. Thức nầy có nhiều cách gọi khác nhau để chỉ về nhiệm vụ của mình. Tựu chung thức nầy có 3 việc chính là: Năng tàng, Sở tàng và Ngã ái chấp tàng.
(Xem: 5534)
Khi còn vướng mắc trong sự tạo tác triền miên của khái niệm, chẳng hạn như suy nghĩ về cái đúng, cái sai, v.v. , thì các bạn sẽ không thể nào bước vào con đường tu tập về
(Xem: 6171)
Học phái dịch thuật xưa của Phật giáo Tây Tạng đưa ra nhiều cách luyện tập dựa vào các phương pháp khác biệt nhau, gọi là các "cỗ xe"/thừa.
(Xem: 8433)
Thần tài trong Phật giáo, cụ thểPhật giáo Bắc truyền đã vay mượn giữa hình ảnh Bố Đại hòa thượng và các truyền thuyết về thần tài Trung Hoa, để tổng hòa nên một vị thần tài có nguồn gốc ngoài Phật giáo.
(Xem: 5149)
Thời Đức Phật tại thế, Ấn Độít nhất mười sáu tiểu vương quốc, mỗi vương quốc đều có ngôn ngữ hay phương ngữ riêng, nhưng có lẽ người dân của mỗi nước đều có thể giao tiếp và hiểu nhau được.
(Xem: 5681)
Trong các kinh sách thừa hưởng từ [Phật giáo] Ấn Độ thì nguyên tắc căn bản đó lúc thì được gọi là "tâm thức tự tại
(Xem: 7292)
Kinh Hoa Nghiêm tiếng Sanskrit là Avatamsaka, tiếng Nhật là Kégon Kyo. Kinh nầy bằng tiếng Sanskrit do Bồ Tát Long Tho (Nagarjuna) soạn vào khoảng thế kỷ thứ 2 Tây Lịch.
(Xem: 6193)
Con người muốn có cuộc sống an lạchạnh phúc, cần phải tu nhơn tạo phước, chứ không phải chỉ cầu nguyện...
(Xem: 5828)
Phát huy sự chú tâm đúng đắn hướng vào một điểm nhằm mục đích gì? Việc luyện tập đó không nhất thiết là chỉ để giúp tâm thức đạt được một mức độ tập trung thật cao...
(Xem: 4652)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Nói Về Phật Giáo Ứng Dụng - Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5564)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường đức Phật...
(Xem: 5724)
Hàng ngày các Phật tử có thể “Xưng danh hiệu” hay “Niệm danh hiệu” của chư Phật, tức là đọc tên của chư Phật và tưởng nhớ đến các ngài.
(Xem: 5993)
Trong Phật giáo, giải thoát hay thoát khỏi luân hồi là một đề tài vô cùng lớn lao. Ngay cả những người Phật tử đã học qua giáo lý, cũng mường tượng sự giải thoát như ...
(Xem: 6481)
Như Lai có thể diễn tả những gì Ngài muốn bằng bất kỳ ngôn ngữ nào
(Xem: 5821)
Thuật Ngữ nầy có liên hệ đến rất nhiều Thuật Ngữ khác trong Kinh Điển Phật Giáo như: Thủy Giác, Chân Như, Như Lai Tạng, Pháp Tánh, Pháp Giới, Niết Bàn, Pháp Thân, Phật Tánh, Giải Thoát Thực Chất, Toàn Giác v.v…
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant