Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cội Nguồn Và Nguy Hại Của Tà Kiến

23 Tháng Bảy 201911:03(Xem: 3070)
Cội Nguồn Và Nguy Hại Của Tà Kiến

CỘI NGUỒN VÀ NGUY HẠI CỦA TÀ KIẾN
Thiện Quả Đào Văn Bình

Có thể nói ngày nay, chiến tranh, hận thù, thương yêu, ghét bỏ, kỳ thị, náo động trên thế giới… đều do tà kiến mà ra. Nhưng thế nào là tà kiến? Tà kiến là cái nhìn sai lệch, không bằng trí tuệ mà bằng phân biệt, thương-ghét. Khi đó cái mà chúng ta nhìn (nhãn trần) không còn đúng sự thực, không đúng ở thể chân như của nó nữa. Lấy  thí dụ, mặt hồ phẳng lặng kia ẩn dụ cho chân tâm hay Phật tánh. Với mặt hồ phẳng lặng này, mọi vật phản chiếu trên mặt hồ đều “như thị, như thị” tức ở thể chân như. Khi ta ném một cục đá xuống hồ khiến mặt hồ dao động, mọi hình ảnh đều méo mó và không còn đúng ở thể chân như nữa. Nếu ta chấp trước vào hình ảnh méo mó này… lập lập tức tà kiến hay cái nhìn lệch lạc nảy sinh. Vậy thì thủ phạm sinh ra tà kiến (false views, unjust views) chính là cục đá kia.

Thế nhưng cục đá chỉ là ẩn dụ. Trong hầu hết các bộ kinh, Đức Phật đều chỉ cho chúng ta thấy cái Ngã, hay Cái Tôi chính là cục đá. Chính Cái Tôi là cội nguồn sinh ra mọi phiền não, tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Chính vì sợ hãi cái Tôi (le moi) mà ngạn ngữ Pháp có câu, “le moi est haissable” (Cái Tôi thật đáng ghét) vì cái Tôi khinh mạn, kiêu căng và gây tội lỗi. Trong Kinh Viên Giác, Phật chỉ cho chúng ta thấy cái Ngã là một tập hợp của Cái Ta và Cái Ta Thích tức bao gồm thân xác này và những gì bám chung quanh thân xác nhưng ta yêu thích.

1) Về cái Ta: Nó chính là thân xác, hình hài của ta đây. Khi thân thể này được mơn trớn nó cũng sinh tà kiến. Khi nó bị xâm hại nó cũng sinh tà kiến. Thật khó lòng mà chúng ta nghĩ tốt về kẻ nào đó xâm phạm đến thân thể của chúng ta. Một cậu con trai hay cô gái bị ai đó chê xấu…liệu cô/cậu ấy phản ứng như thế nào?

2) Về Cái Ta Thích: Nó không phải là Ta. Nó nằm ngoài thân thể này, nhưng nó lại là cái mà ta yêu mến. Thí dụ:

-Vợ con, người tình của chúng ta.

-Người mà chúng ta mê đắm, dù không phải là sở hữu của ta.  Thí dụ: Một cậu trai/cô gái yêu trộm nhớ thầm một anh chàng/cô hàng xóm. Dù không được yêu lại, nhưng ghen ghét tất cả những ai đến gần cô/cậu hàng xóm này. Như vậy chính sự say mê, yêu thích đã sinh ra tà kiến.

-Của cải:  Như căn nhà, chiếc xe, ruộng đất, tài sản, công ty...cơ sở làm ăn của chúng ta. Thử ai cọ quẹt hay đụng vào chiếc xe của chúng ta, thậm chí đá hay đánh con chó, con mèo mà chúng ta thương mến…xem chúng ta phản ứng như thế nào?  

-Những vật trang trí như kim cương, nhẫn, bông tai, nữ trang, gấm vóc lụa là… chúng không  phải là vật nuôi dưỡng sinh mạng ta. Nhưng chúng ta nghĩ rằng nó làm đẹp cho Ta, nó phục vụ thân xác này nên chúng ta yêu mến nó. Và có khi yêu mến hơn cả sinh mạng mình. Yêu mến những vật trang trí cho vẻ đẹp của mình là tà kiến. Nữ trang không hề làm tăng thêm phẩm giá hay vẻ đẹp của con người. Chỉ có phẩm hạnh là trang sức quý giá nhất.

-Không phải chỉ của cảitrước mắt hay quanh ta, mà của cải đó có thể ở nơi rất xa. Thí dụ: Một người ở Việt Nam nhưng đầu tư, làm ăn buôn bán ở Mỹ. Nếu có ai đụng vào những thứ này tức đụng vào Cái Ta Thích của ông ta. Có thể nói không sợ sai lầm rằng, nếu ai đó có người yêu ở Cung Trăng thì cái hồn của người đó, cái Ngã của người đó cũng nằm ở Cung Trăng luôn.

-Cái Ta Thích nhiều khi nó không có hình hài và rất đa dạng. Thí dụ cái tên của chúng ta, danh vọng, chức vụ của chúng ta. Thử ai đó đem cái tên của chúng ta ra bêu xấu, đem tư cách của chúng ta ra bình phẩm, đem bài hát, bài thơ, cuốn sách, cô ca sĩ, người mẫu mà chúng ta thích hay tôn làm thần tượng ra chê bai, thì chúng ta nghĩ thế nào về người đó? Đối với một vị tu hànhhòa thượng, mà người giới thiệu chương trình xướng lầm là thượng tọa. Liệu vị tu hành đó có “hỉ xả” vui vẻ bỏ qua không ? Hay trong bụng nổi cáu và nghĩ rằng mình bị xúc phạm? Nổi cáu và nghĩ rằng mình bị xúc phạm thì tà kiến sẽ nảy sinh tức thì .

-Cũng nên nhớ rằng càng quyền thế, giàu có, siêu cường (mạnh vô địch)… thì Cái Ta Thích càng nhiều, càng vĩ đại và ở khắp mọi nơi, có thể bao trùm cả vũ trụ này.

-Một cách tự nhiên, Cái Ta và Cái Ta Thích quyện vào nhau thành cái Tôi hay Cái Ngã mà thuật ngữ nhà Phật còn gọi đó là cái Tâm - tâm chúng sinh. Khi cái Ta và Cái Ta Thích bị tổn thương, bị đụng chạm, bị chê bai… thì lập tức tâm ta bị dao động, không còn giữ được chánh kiến nữa và tà kiến hay cái nhìn sai lệch nảy sinh.

Về tai hại của tà kiến:

-Tà kiến khiến trí tuệ bị lu mờ. Khi trí tuệ bị lu mờ thì vô minh nảy sinh. Từ vô minh mà sinh vọng động. Vọng động bao gồm ghen ghét, đố kỵ, tỵ hiềm, kỳ thị, thù hận, xa hơn là loại trừ, giết hại. Người Phật tử, tu gì thì tu, pháp môn này hay pháp môn kia, theo thầy này hay thầy kia…muốn theo đúng lời Phật dạy phải tránh xa tà kiến.

-Tà kiến đẻ ra tà sư. Tà sư hành tà đạo. Tà đạo gây nguy hại cho sinh mệnh, tài sản và cuộc sống của tín đồ. Nếu tín đồ đông sẽ gây nguy hại cho đất nước. Kẻ nào kích động tín đồ bỏ cả gia đình, vợ con, của cải và cuộc sống để mơ ước một thiên đường ảo ảnh là kẻ đang hành tà đạo. Chánh đạoxây dựng con ngườixã hộiđạo đức, một đất nước có đạo đức, biến đất nước thành Cực Lạc Tại Thế, hòa bình và an vui. Chánh đạo là đem đạo vào đời để làm đẹp cho đời. Tà đạo làm rối mù cuộc sống và hủy hoại cuộc sống. Tà đạo làm cho cuộc sống này vốn đã khổ đau vì Sinh-Lão-Bệnh-Tử lại càng rối rắm thêm.

-Hiểu sai kinh Phật và lời dạy của chư Tổ cũng là tà kiến. Ngày nay xuất hiện khá nhiều tà sư, bản thân không chịu tu hành mà lại tập trung vào việc bươi móc và cho rằng rất nhiều kinh điển đại thừa là ngụy kinh. Nào là không có Phật A Di Đà, không có Quán Thế Âm Bồ Tát. Thậm chí bộ kinh vĩ đại như Pháp Hoa mà người Nhật coi như quốc bảo cũng là ngụy kinh. Nếu bảo đây là “ngụy kinh”  thì tại sao bao nhiêu thánh tăng, bao đại sĩ của Trung Hoa và Việt Nam tu theo những kinh này mà đắc quả? Còn những kẻ đang lớn tiếng chỉ trích kia tu theo kinh nào và đắc quả gì? Theo tôi những tà sư này đã “đắc quả phá hoại”.

Sau đây là một số điển hình của tà kiến:

-Cho rằng trái đất này do thần linh tạo ra và quyết định cuộc sống và mạng sống của con người…là tà kiến.

-Cho rằng chủng tộc này văn minh, đáng trọng hơn chủng tộc khác… là tà kiến.

-Cho rằng loài vật là do thần linh tạo ra để làm thực phẩm cho con người…là tà kiến. Hiện nay các luật sư bảo vệ thú vật nói rằng, loài vật không phải là Con Người nhưng chúng nó được hưởng một số quyền của con người như: Không bị tàn sát, không bị loài người săn bắt để mua vui, không trở thành vật giải trí cho loài người như đá gà, đấu bò, đua ngựa, không bị hành hạbóc lột sức lao động, không  bị giam nhốt trong sở thú, không  bị lột da để làm áo lông thú cho phụ nữ.

-Cho rằng khác tôn giáo, niềm tin với mình là ma quỷtìm cách giết hại…là tà kiến.

-Cho rằng dâng gái trinh, giết trâu, bò, dê, cừu để cúng tế thần linh là có thể giải được nghiệp, rửa được tội…là tà kiến.

-Tin vào lời truyền tụng, sấm ký, sấm truyền, về tương lai, về ngày tận thế…là tà kiến.

-Truyền bá, phổ biến những điều sai tráigieo rắc tà kiến.

-Cho rằng phước đức do cầu xin mà có…là tà kiến

-Cho rằng vạn pháp đều thường còn, bất diệt, bất tử…là tà kiến.

-Không tin vào Nhân-Quả là tà kiến.

-Cho rằng có một cái Ngã thực sự hiện hữu…là tà kiến.

-Cho rằng có một linh hồn bất biến sau khi chết…là tà kiến.

-Cho rằng đạo Phật hư vô hóa cuộc sống…là tà kiến. Hương Hải Thiền Sư đời vua Lê Dụ Tông dạy rằng, “Chúng sinh mê mờ đạo Phật chứ đạo Phật không bao giờ mê mờ chúng sinh.”

-Đem tiền cúng vào chùa này chùa kia, thầy này thầy kia mà không chịu trau giồi đạo đức (Giới), không chịu lắng đọng tâm tư (Định), không chịu mở mang trí tuệ (Huệ) mà tưởng mình sẽ được vãng sinh, giải thoát hay đắc quả…là rớt vào tà kiến. Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật dạy ngài Tu Bồ Đề rằng, “Những kẻ dùng âm thanh cầu ta, dùng sắc để thấy ta, kẻ ấy hành tà đạo, không thể thấy Như Lai.”

-Cho rằng pháp môn này hay hơn pháp môn kia, tiểu thừa cao hơn đại thừa hoặc đại thừa cao hơn tiểu thừa…đều rớt vào tà kiến. Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật dạy rằng, “Pháp của Như Lai không có thấp có cao.” Nếu Phật pháp có thấp-cao thì sẽ đi ngược với yếu chỉ của Bát Nhã “Bất tịnh, bất cấu, bất tăng, bất giảm”. Pháp Phật không hề có thấp-cao. Tất cả tùy thuộc căn cơ mỗi người và yếu tố địa lý, lịch sử của từng quốc gia khiến thích nghi với pháp môn nào đó. Pháp môn nào cũng thành Phật nếu chúng ta tu tới nơi tới chốn. Pháp môn nào cũng hỏng nếu chúng ta tu theo thị hiếu thời trang, kiểu cọ hay a dua bắt chước. Hiện nay tại Việt Nam có một vài giảng sư tăm tiếng đã chê trách chư Tổ là đã triển khai giáo lý Đại Thừa mà quên hoặc không biết gì  về  giáo lý Tiểu Thừa mà Phật dạy về thuật trị quốc cùng những vấn đề của gia đìnhxã hội. Vị giảng sư này quên mất khi Phật pháp tràn vào Trung Hoa thì Trung Hoa đã nở rộ rất nhiều tư tưởng vĩ đại, xây dựng được rất nhiều học thuyết về thuật trị quốc, tu dưỡng bản thân, gia đình, điều hòa xã hội như Khổng Tử, Lão Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử, Mặc Tử, Hàn Phi Tử cùng Bách Gia Chư Tử. Những lời giảng dạy như: “Chính tâm, thành ý, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” đều đã có trước khi Phật pháp vào và đã thấm vào máu dân tộc này trước đó mấy trăm năm. Rồi những tư tưởng về đạo hiếu, về tương quan trong gia đình (Gia Huấn Ca của Nguyễn Trãi), làng nước, xã hội đều đã thành nề nếp và truyền thống khắp Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật BảnViệt Nam. Những tư tưởng như:

 “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”,

 “Ý dân là ý trời”,

 “Tru bạo quốc nhược tru độc phu” (Giết một ông vua bạo ngược là giết một kẻ ác độc chứ không phải giết vua), 

 “Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong” (Thuận theo Trời thì còn, nghịch ý Trời thì chết)

“Thiên căng vu dân, dân chi sở hiếu thiên tất tòng chi” (Trời rất thương dân, dân thích gì Trời sẽ chiều theo)

“Dân chi sở hiếu, hiếu chi. Dân chi sở ố, ố chi. Xử chi bỉ dân chi phụ mẫu” (Dân thích cái gì mình thích cái đó. Dân ghét cái gì mình ghét cái đó. Làm được như vậy là cha mẹ dân). Rồi khi đất nước có dịch bệnh, động đất, lụt lội, hạn hán, mất mùa…các vị vua nhân đức đều quy trách nhiệm về mình và phải ăn chay, nằm đất tế cáo trời đất để tạ tội.

 Trước thực tế như vậy, phổ biến các lời dạy của Phật về thuật trị quốc, giải quyết những vấn đề của gia đìnhxã hộidư thừa và không hợp thời và giới hạn Phật Giáo trong khuôn khổ xã hội và chính trị. Chư Tổ thấy rằng cái mà nước Trung Hoa lúc bấy giờ thiếu là sự giải thoát trí tuệan lành cho con người…điều mà các triết gia nói ở trên không có hoặc không nói tới. Với gương Thập Nhị Tứ Hiếu và với câu ca dao, “Công cha như núi Thái Sơn. Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”  thì đâu phải đợi tới sự tích Mục Kiền Liên mới có đạo hiếu ở Việt Nam và Trung Hoa? Vậy thì ngày nay, phổ biến kinh điển Tiểu Thừa mà Phật dạy về các vấn đề trị quốc, xây dựng mối liên hệ trong gia đìnhxã hội là điều tốt lành và hợp thời, nhưng  cũng đừng chê trách chư Tổ trong quá khứ chỉ phổ biến tư tưởng Đại Thừa mà quên hoặc không biết gì về tư tưởng Tiểu Thừa.

-Giữ tâm kỳ thị, ghen ghét, hận thù, đố kỵ, chỉ nghĩ về mình… là nuôi dưỡng tà kiến trong người.

-Cùng là một chuyện, nếu đó là vợ con, anh em, bạn bè, phe nhóm của mình thì cho là đúng. Còn người khác làm thì cho đó là sai. Đó là tà kiến.

-Cùng là một chuyện, nếu là nước chư hầu, tay sai, đồng minh của mình thì ỉm đi. Còn nếu là nước mình ghét, thù nghịch thì làm ầm lên rồi o ép, cấm vận, lật đổ. Tiếng Anh gọi đó là “Double standard” tức “Trò chơi hai mặt”. Trò chơi hai mặt hay chính sách hai mặt đều là tà kiến.

-Vì tự ái mà hành động là bị dẫn dắt bởi tà kiến. Trong Kinh Viên Giác, Đức Phật dạy rằng tu hành rất siêng năng, công phu, nhưng nếu có người chê bai mình bèn nổi giận thì cái Ngã vẫn còn nguyên đó. Trong đời này, có khi càng tu lại càng tô bồi thêm cái Ngã. Nếu một nhà tu hành nghĩ rằng, “Tôi như thế này, tôi như thế kia, công trạng tôi như thế này, chức vụ tôi như thế này, bằng cấp của tôi như thế này, đệ tử tôi nhiều như thế này…” Suy nghĩ như thế là xa lìa tự tánh và rớt vào tà kiến. Nếu có tu thêm 500 năm nữa thì cũng giống như con rùa trong truyện Tây Du Ký nổi cáu khi Đường Tăng quên không hỏi dùm Phật Tổ tại sao rùa tôi tu mãi mà không thành Phật. Còn chấp vào Ngã Tướng thì làm sao thành Phật? Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật dạy ngài Tu Bồ Đề, “Nếu Bồ Tát chấp có tướng mình, tướng người, tướng chúng sinh, tướng mạng số, tức chẳng phải Bồ Tát.”

        Khi đã hiểu tà kiến nguy hại như thế, vậy có cách gì xa lìa tà kiến? Theo lời dạy của chư Tổ thì những phương tiện sau đây có thể giúp chúng ta phá bỏ hoặc lánh xa hoặc kiềm chế được tà kiến:

-Đối cảnh mà “vô tâm” thì tà kiến không nảy sinh.

- Đối cảnh mà tâm Định như thiền sư thì tà kiến không nảy sinh.

- Đối cảnh mà giữ gìn chánh niệm thì tà kiến không nảy sinh.

- Đối cảnh mà niệm Phật thì tà kiến khó nảy sinh.

-Đối cảnh mà quán chiếu bằng Từ Bi thì tà kiến không nảy sinh.

-Đối cảnh mà từ từ quán xét, chớ vội kết luận thì tà kiến không nảy sinh.

-Gần gũi thiện tri thức, xa lánh kẻ xấu ác cũng giúp vun bồi chánh kiến, từ đó có nhiều cơ may xa lìa tà kiến.

-Thường xuyên tụng kinh, niệm Phật hoặc thường xuyên ngồi tĩnh lặng mà quán chiếu sự vật. Quán chiếusuy nghĩ tới chỗ tận cùng của nó thì trí tuệ sẽ sáng và tà kiến từ từ diệt mất.

-Phải thấy cái Tôi, Cái Ngã hay Thân này là hư dối. Nó do Ngũ Uẩn giả hợp mà thành. Nó không có thực thể cho nên mọi tác động đến nó đều giả, không thực. Bằng tâm niệm như thế, chắc chắnchánh kiếnxa lìa tà kiến.

            Để kết luận, là người Phật tử chúng ta nên nhớ rằng:

Nếu nhìn bằng tà kiến, tức chỉ quan tâm đến cái Tôi, Cái Tôi Thích và Cái Tôi Đúng… thì sáu tỉ người trên trái đất này đều đáng ghét và là kẻ thù của chúng ta như triết gia Jean Paul Sartre nói, “Tha nhân là địa ngục” (L'enfer c'est les autres). Biết bao đau thương, nghiệt ngã, chết chóc xảy ra cho nhân loại- ít ra là 2000 năm nay, đều do tà kiến mà ra.

Nếu nhìn bằng chánh kiến tức thấy Cái Tôi này vô thường và giả dối… thì sáu tỉ người trên trái đất này là bạn của ta. Phật Giáo với chánh kiến, không nhìn thấy ai là kẻ thù, mà chỉ nhìn thấy chúng sinh từ vô lượng kiếp đầy dẫy khổ đau và cần cứu độ.

Thiện Quả Đào Văn Bình

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1658)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1626)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1036)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1513)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1495)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1677)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1942)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1526)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1353)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1372)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1550)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1143)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1264)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1277)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1696)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1643)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 3005)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1825)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1365)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1220)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1281)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1410)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1325)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1925)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1684)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1894)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1824)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2393)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1786)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2129)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2235)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2302)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1855)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1978)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2032)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1958)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2595)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1947)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1885)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1945)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1897)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2171)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2302)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1984)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2088)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1887)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1905)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2413)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2325)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 3999)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2481)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3197)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2471)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2047)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1799)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3305)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2346)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3032)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2703)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant