Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Cội Nguồn Và Nguy Hại Của Tà Kiến

23 Tháng Bảy 201911:03(Xem: 3046)
Cội Nguồn Và Nguy Hại Của Tà Kiến

CỘI NGUỒN VÀ NGUY HẠI CỦA TÀ KIẾN
Thiện Quả Đào Văn Bình

Có thể nói ngày nay, chiến tranh, hận thù, thương yêu, ghét bỏ, kỳ thị, náo động trên thế giới… đều do tà kiến mà ra. Nhưng thế nào là tà kiến? Tà kiến là cái nhìn sai lệch, không bằng trí tuệ mà bằng phân biệt, thương-ghét. Khi đó cái mà chúng ta nhìn (nhãn trần) không còn đúng sự thực, không đúng ở thể chân như của nó nữa. Lấy  thí dụ, mặt hồ phẳng lặng kia ẩn dụ cho chân tâm hay Phật tánh. Với mặt hồ phẳng lặng này, mọi vật phản chiếu trên mặt hồ đều “như thị, như thị” tức ở thể chân như. Khi ta ném một cục đá xuống hồ khiến mặt hồ dao động, mọi hình ảnh đều méo mó và không còn đúng ở thể chân như nữa. Nếu ta chấp trước vào hình ảnh méo mó này… lập lập tức tà kiến hay cái nhìn lệch lạc nảy sinh. Vậy thì thủ phạm sinh ra tà kiến (false views, unjust views) chính là cục đá kia.

Thế nhưng cục đá chỉ là ẩn dụ. Trong hầu hết các bộ kinh, Đức Phật đều chỉ cho chúng ta thấy cái Ngã, hay Cái Tôi chính là cục đá. Chính Cái Tôi là cội nguồn sinh ra mọi phiền não, tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Chính vì sợ hãi cái Tôi (le moi) mà ngạn ngữ Pháp có câu, “le moi est haissable” (Cái Tôi thật đáng ghét) vì cái Tôi khinh mạn, kiêu căng và gây tội lỗi. Trong Kinh Viên Giác, Phật chỉ cho chúng ta thấy cái Ngã là một tập hợp của Cái Ta và Cái Ta Thích tức bao gồm thân xác này và những gì bám chung quanh thân xác nhưng ta yêu thích.

1) Về cái Ta: Nó chính là thân xác, hình hài của ta đây. Khi thân thể này được mơn trớn nó cũng sinh tà kiến. Khi nó bị xâm hại nó cũng sinh tà kiến. Thật khó lòng mà chúng ta nghĩ tốt về kẻ nào đó xâm phạm đến thân thể của chúng ta. Một cậu con trai hay cô gái bị ai đó chê xấu…liệu cô/cậu ấy phản ứng như thế nào?

2) Về Cái Ta Thích: Nó không phải là Ta. Nó nằm ngoài thân thể này, nhưng nó lại là cái mà ta yêu mến. Thí dụ:

-Vợ con, người tình của chúng ta.

-Người mà chúng ta mê đắm, dù không phải là sở hữu của ta.  Thí dụ: Một cậu trai/cô gái yêu trộm nhớ thầm một anh chàng/cô hàng xóm. Dù không được yêu lại, nhưng ghen ghét tất cả những ai đến gần cô/cậu hàng xóm này. Như vậy chính sự say mê, yêu thích đã sinh ra tà kiến.

-Của cải:  Như căn nhà, chiếc xe, ruộng đất, tài sản, công ty...cơ sở làm ăn của chúng ta. Thử ai cọ quẹt hay đụng vào chiếc xe của chúng ta, thậm chí đá hay đánh con chó, con mèo mà chúng ta thương mến…xem chúng ta phản ứng như thế nào?  

-Những vật trang trí như kim cương, nhẫn, bông tai, nữ trang, gấm vóc lụa là… chúng không  phải là vật nuôi dưỡng sinh mạng ta. Nhưng chúng ta nghĩ rằng nó làm đẹp cho Ta, nó phục vụ thân xác này nên chúng ta yêu mến nó. Và có khi yêu mến hơn cả sinh mạng mình. Yêu mến những vật trang trí cho vẻ đẹp của mình là tà kiến. Nữ trang không hề làm tăng thêm phẩm giá hay vẻ đẹp của con người. Chỉ có phẩm hạnh là trang sức quý giá nhất.

-Không phải chỉ của cảitrước mắt hay quanh ta, mà của cải đó có thể ở nơi rất xa. Thí dụ: Một người ở Việt Nam nhưng đầu tư, làm ăn buôn bán ở Mỹ. Nếu có ai đụng vào những thứ này tức đụng vào Cái Ta Thích của ông ta. Có thể nói không sợ sai lầm rằng, nếu ai đó có người yêu ở Cung Trăng thì cái hồn của người đó, cái Ngã của người đó cũng nằm ở Cung Trăng luôn.

-Cái Ta Thích nhiều khi nó không có hình hài và rất đa dạng. Thí dụ cái tên của chúng ta, danh vọng, chức vụ của chúng ta. Thử ai đó đem cái tên của chúng ta ra bêu xấu, đem tư cách của chúng ta ra bình phẩm, đem bài hát, bài thơ, cuốn sách, cô ca sĩ, người mẫu mà chúng ta thích hay tôn làm thần tượng ra chê bai, thì chúng ta nghĩ thế nào về người đó? Đối với một vị tu hànhhòa thượng, mà người giới thiệu chương trình xướng lầm là thượng tọa. Liệu vị tu hành đó có “hỉ xả” vui vẻ bỏ qua không ? Hay trong bụng nổi cáu và nghĩ rằng mình bị xúc phạm? Nổi cáu và nghĩ rằng mình bị xúc phạm thì tà kiến sẽ nảy sinh tức thì .

-Cũng nên nhớ rằng càng quyền thế, giàu có, siêu cường (mạnh vô địch)… thì Cái Ta Thích càng nhiều, càng vĩ đại và ở khắp mọi nơi, có thể bao trùm cả vũ trụ này.

-Một cách tự nhiên, Cái Ta và Cái Ta Thích quyện vào nhau thành cái Tôi hay Cái Ngã mà thuật ngữ nhà Phật còn gọi đó là cái Tâm - tâm chúng sinh. Khi cái Ta và Cái Ta Thích bị tổn thương, bị đụng chạm, bị chê bai… thì lập tức tâm ta bị dao động, không còn giữ được chánh kiến nữa và tà kiến hay cái nhìn sai lệch nảy sinh.

Về tai hại của tà kiến:

-Tà kiến khiến trí tuệ bị lu mờ. Khi trí tuệ bị lu mờ thì vô minh nảy sinh. Từ vô minh mà sinh vọng động. Vọng động bao gồm ghen ghét, đố kỵ, tỵ hiềm, kỳ thị, thù hận, xa hơn là loại trừ, giết hại. Người Phật tử, tu gì thì tu, pháp môn này hay pháp môn kia, theo thầy này hay thầy kia…muốn theo đúng lời Phật dạy phải tránh xa tà kiến.

-Tà kiến đẻ ra tà sư. Tà sư hành tà đạo. Tà đạo gây nguy hại cho sinh mệnh, tài sản và cuộc sống của tín đồ. Nếu tín đồ đông sẽ gây nguy hại cho đất nước. Kẻ nào kích động tín đồ bỏ cả gia đình, vợ con, của cải và cuộc sống để mơ ước một thiên đường ảo ảnh là kẻ đang hành tà đạo. Chánh đạoxây dựng con ngườixã hộiđạo đức, một đất nước có đạo đức, biến đất nước thành Cực Lạc Tại Thế, hòa bình và an vui. Chánh đạo là đem đạo vào đời để làm đẹp cho đời. Tà đạo làm rối mù cuộc sống và hủy hoại cuộc sống. Tà đạo làm cho cuộc sống này vốn đã khổ đau vì Sinh-Lão-Bệnh-Tử lại càng rối rắm thêm.

-Hiểu sai kinh Phật và lời dạy của chư Tổ cũng là tà kiến. Ngày nay xuất hiện khá nhiều tà sư, bản thân không chịu tu hành mà lại tập trung vào việc bươi móc và cho rằng rất nhiều kinh điển đại thừa là ngụy kinh. Nào là không có Phật A Di Đà, không có Quán Thế Âm Bồ Tát. Thậm chí bộ kinh vĩ đại như Pháp Hoa mà người Nhật coi như quốc bảo cũng là ngụy kinh. Nếu bảo đây là “ngụy kinh”  thì tại sao bao nhiêu thánh tăng, bao đại sĩ của Trung Hoa và Việt Nam tu theo những kinh này mà đắc quả? Còn những kẻ đang lớn tiếng chỉ trích kia tu theo kinh nào và đắc quả gì? Theo tôi những tà sư này đã “đắc quả phá hoại”.

Sau đây là một số điển hình của tà kiến:

-Cho rằng trái đất này do thần linh tạo ra và quyết định cuộc sống và mạng sống của con người…là tà kiến.

-Cho rằng chủng tộc này văn minh, đáng trọng hơn chủng tộc khác… là tà kiến.

-Cho rằng loài vật là do thần linh tạo ra để làm thực phẩm cho con người…là tà kiến. Hiện nay các luật sư bảo vệ thú vật nói rằng, loài vật không phải là Con Người nhưng chúng nó được hưởng một số quyền của con người như: Không bị tàn sát, không bị loài người săn bắt để mua vui, không trở thành vật giải trí cho loài người như đá gà, đấu bò, đua ngựa, không bị hành hạbóc lột sức lao động, không  bị giam nhốt trong sở thú, không  bị lột da để làm áo lông thú cho phụ nữ.

-Cho rằng khác tôn giáo, niềm tin với mình là ma quỷtìm cách giết hại…là tà kiến.

-Cho rằng dâng gái trinh, giết trâu, bò, dê, cừu để cúng tế thần linh là có thể giải được nghiệp, rửa được tội…là tà kiến.

-Tin vào lời truyền tụng, sấm ký, sấm truyền, về tương lai, về ngày tận thế…là tà kiến.

-Truyền bá, phổ biến những điều sai tráigieo rắc tà kiến.

-Cho rằng phước đức do cầu xin mà có…là tà kiến

-Cho rằng vạn pháp đều thường còn, bất diệt, bất tử…là tà kiến.

-Không tin vào Nhân-Quả là tà kiến.

-Cho rằng có một cái Ngã thực sự hiện hữu…là tà kiến.

-Cho rằng có một linh hồn bất biến sau khi chết…là tà kiến.

-Cho rằng đạo Phật hư vô hóa cuộc sống…là tà kiến. Hương Hải Thiền Sư đời vua Lê Dụ Tông dạy rằng, “Chúng sinh mê mờ đạo Phật chứ đạo Phật không bao giờ mê mờ chúng sinh.”

-Đem tiền cúng vào chùa này chùa kia, thầy này thầy kia mà không chịu trau giồi đạo đức (Giới), không chịu lắng đọng tâm tư (Định), không chịu mở mang trí tuệ (Huệ) mà tưởng mình sẽ được vãng sinh, giải thoát hay đắc quả…là rớt vào tà kiến. Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật dạy ngài Tu Bồ Đề rằng, “Những kẻ dùng âm thanh cầu ta, dùng sắc để thấy ta, kẻ ấy hành tà đạo, không thể thấy Như Lai.”

-Cho rằng pháp môn này hay hơn pháp môn kia, tiểu thừa cao hơn đại thừa hoặc đại thừa cao hơn tiểu thừa…đều rớt vào tà kiến. Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật dạy rằng, “Pháp của Như Lai không có thấp có cao.” Nếu Phật pháp có thấp-cao thì sẽ đi ngược với yếu chỉ của Bát Nhã “Bất tịnh, bất cấu, bất tăng, bất giảm”. Pháp Phật không hề có thấp-cao. Tất cả tùy thuộc căn cơ mỗi người và yếu tố địa lý, lịch sử của từng quốc gia khiến thích nghi với pháp môn nào đó. Pháp môn nào cũng thành Phật nếu chúng ta tu tới nơi tới chốn. Pháp môn nào cũng hỏng nếu chúng ta tu theo thị hiếu thời trang, kiểu cọ hay a dua bắt chước. Hiện nay tại Việt Nam có một vài giảng sư tăm tiếng đã chê trách chư Tổ là đã triển khai giáo lý Đại Thừa mà quên hoặc không biết gì  về  giáo lý Tiểu Thừa mà Phật dạy về thuật trị quốc cùng những vấn đề của gia đìnhxã hội. Vị giảng sư này quên mất khi Phật pháp tràn vào Trung Hoa thì Trung Hoa đã nở rộ rất nhiều tư tưởng vĩ đại, xây dựng được rất nhiều học thuyết về thuật trị quốc, tu dưỡng bản thân, gia đình, điều hòa xã hội như Khổng Tử, Lão Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử, Mặc Tử, Hàn Phi Tử cùng Bách Gia Chư Tử. Những lời giảng dạy như: “Chính tâm, thành ý, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” đều đã có trước khi Phật pháp vào và đã thấm vào máu dân tộc này trước đó mấy trăm năm. Rồi những tư tưởng về đạo hiếu, về tương quan trong gia đình (Gia Huấn Ca của Nguyễn Trãi), làng nước, xã hội đều đã thành nề nếp và truyền thống khắp Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật BảnViệt Nam. Những tư tưởng như:

 “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”,

 “Ý dân là ý trời”,

 “Tru bạo quốc nhược tru độc phu” (Giết một ông vua bạo ngược là giết một kẻ ác độc chứ không phải giết vua), 

 “Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong” (Thuận theo Trời thì còn, nghịch ý Trời thì chết)

“Thiên căng vu dân, dân chi sở hiếu thiên tất tòng chi” (Trời rất thương dân, dân thích gì Trời sẽ chiều theo)

“Dân chi sở hiếu, hiếu chi. Dân chi sở ố, ố chi. Xử chi bỉ dân chi phụ mẫu” (Dân thích cái gì mình thích cái đó. Dân ghét cái gì mình ghét cái đó. Làm được như vậy là cha mẹ dân). Rồi khi đất nước có dịch bệnh, động đất, lụt lội, hạn hán, mất mùa…các vị vua nhân đức đều quy trách nhiệm về mình và phải ăn chay, nằm đất tế cáo trời đất để tạ tội.

 Trước thực tế như vậy, phổ biến các lời dạy của Phật về thuật trị quốc, giải quyết những vấn đề của gia đìnhxã hộidư thừa và không hợp thời và giới hạn Phật Giáo trong khuôn khổ xã hội và chính trị. Chư Tổ thấy rằng cái mà nước Trung Hoa lúc bấy giờ thiếu là sự giải thoát trí tuệan lành cho con người…điều mà các triết gia nói ở trên không có hoặc không nói tới. Với gương Thập Nhị Tứ Hiếu và với câu ca dao, “Công cha như núi Thái Sơn. Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”  thì đâu phải đợi tới sự tích Mục Kiền Liên mới có đạo hiếu ở Việt Nam và Trung Hoa? Vậy thì ngày nay, phổ biến kinh điển Tiểu Thừa mà Phật dạy về các vấn đề trị quốc, xây dựng mối liên hệ trong gia đìnhxã hội là điều tốt lành và hợp thời, nhưng  cũng đừng chê trách chư Tổ trong quá khứ chỉ phổ biến tư tưởng Đại Thừa mà quên hoặc không biết gì về tư tưởng Tiểu Thừa.

-Giữ tâm kỳ thị, ghen ghét, hận thù, đố kỵ, chỉ nghĩ về mình… là nuôi dưỡng tà kiến trong người.

-Cùng là một chuyện, nếu đó là vợ con, anh em, bạn bè, phe nhóm của mình thì cho là đúng. Còn người khác làm thì cho đó là sai. Đó là tà kiến.

-Cùng là một chuyện, nếu là nước chư hầu, tay sai, đồng minh của mình thì ỉm đi. Còn nếu là nước mình ghét, thù nghịch thì làm ầm lên rồi o ép, cấm vận, lật đổ. Tiếng Anh gọi đó là “Double standard” tức “Trò chơi hai mặt”. Trò chơi hai mặt hay chính sách hai mặt đều là tà kiến.

-Vì tự ái mà hành động là bị dẫn dắt bởi tà kiến. Trong Kinh Viên Giác, Đức Phật dạy rằng tu hành rất siêng năng, công phu, nhưng nếu có người chê bai mình bèn nổi giận thì cái Ngã vẫn còn nguyên đó. Trong đời này, có khi càng tu lại càng tô bồi thêm cái Ngã. Nếu một nhà tu hành nghĩ rằng, “Tôi như thế này, tôi như thế kia, công trạng tôi như thế này, chức vụ tôi như thế này, bằng cấp của tôi như thế này, đệ tử tôi nhiều như thế này…” Suy nghĩ như thế là xa lìa tự tánh và rớt vào tà kiến. Nếu có tu thêm 500 năm nữa thì cũng giống như con rùa trong truyện Tây Du Ký nổi cáu khi Đường Tăng quên không hỏi dùm Phật Tổ tại sao rùa tôi tu mãi mà không thành Phật. Còn chấp vào Ngã Tướng thì làm sao thành Phật? Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật dạy ngài Tu Bồ Đề, “Nếu Bồ Tát chấp có tướng mình, tướng người, tướng chúng sinh, tướng mạng số, tức chẳng phải Bồ Tát.”

        Khi đã hiểu tà kiến nguy hại như thế, vậy có cách gì xa lìa tà kiến? Theo lời dạy của chư Tổ thì những phương tiện sau đây có thể giúp chúng ta phá bỏ hoặc lánh xa hoặc kiềm chế được tà kiến:

-Đối cảnh mà “vô tâm” thì tà kiến không nảy sinh.

- Đối cảnh mà tâm Định như thiền sư thì tà kiến không nảy sinh.

- Đối cảnh mà giữ gìn chánh niệm thì tà kiến không nảy sinh.

- Đối cảnh mà niệm Phật thì tà kiến khó nảy sinh.

-Đối cảnh mà quán chiếu bằng Từ Bi thì tà kiến không nảy sinh.

-Đối cảnh mà từ từ quán xét, chớ vội kết luận thì tà kiến không nảy sinh.

-Gần gũi thiện tri thức, xa lánh kẻ xấu ác cũng giúp vun bồi chánh kiến, từ đó có nhiều cơ may xa lìa tà kiến.

-Thường xuyên tụng kinh, niệm Phật hoặc thường xuyên ngồi tĩnh lặng mà quán chiếu sự vật. Quán chiếusuy nghĩ tới chỗ tận cùng của nó thì trí tuệ sẽ sáng và tà kiến từ từ diệt mất.

-Phải thấy cái Tôi, Cái Ngã hay Thân này là hư dối. Nó do Ngũ Uẩn giả hợp mà thành. Nó không có thực thể cho nên mọi tác động đến nó đều giả, không thực. Bằng tâm niệm như thế, chắc chắnchánh kiếnxa lìa tà kiến.

            Để kết luận, là người Phật tử chúng ta nên nhớ rằng:

Nếu nhìn bằng tà kiến, tức chỉ quan tâm đến cái Tôi, Cái Tôi Thích và Cái Tôi Đúng… thì sáu tỉ người trên trái đất này đều đáng ghét và là kẻ thù của chúng ta như triết gia Jean Paul Sartre nói, “Tha nhân là địa ngục” (L'enfer c'est les autres). Biết bao đau thương, nghiệt ngã, chết chóc xảy ra cho nhân loại- ít ra là 2000 năm nay, đều do tà kiến mà ra.

Nếu nhìn bằng chánh kiến tức thấy Cái Tôi này vô thường và giả dối… thì sáu tỉ người trên trái đất này là bạn của ta. Phật Giáo với chánh kiến, không nhìn thấy ai là kẻ thù, mà chỉ nhìn thấy chúng sinh từ vô lượng kiếp đầy dẫy khổ đau và cần cứu độ.

Thiện Quả Đào Văn Bình

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2017)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
(Xem: 3015)
Tôi không cần giải thích tại sao bạn cần phải thực hành Pháp; tôi nghĩ bạn hiểu điều đó.
(Xem: 2631)
Thế giới chúng ta đang sinh sống ắt phải nằm trong “Hoa tạng thế giới”, tức là thế giới Hoa Nghiêm
(Xem: 3533)
Việc thẳng tiến bước trên con đường đạo lý thanh cao hầu đạt đến chân lý hạnh phúc chẳng khác nào bơi ngược dòng đời là một vấn đề...
(Xem: 3364)
Chúng ta thấy một sự vật bằng cách thấy màu sắc của nó và nhờ màu sắc ấy mà phân biệt với những sự vật có màu sắc khác
(Xem: 4198)
Tiếng Sankrit là Drama (tiếng Tạng là: cho) nghĩa là giữ lấy hoặc nâng đỡ. Vậy Pháp nâng đỡ hoặc duy trì cái gì?
(Xem: 3710)
Trong những nhà phiên dịch kinh điểnthời kỳ đầu của Phật giáo Trung Quốc, ngài Đàm-vô-sấm (曇無讖) hiện ra như một nhà phiên kinh trác việt[1].
(Xem: 4262)
Khi chúng ta mới học lần đầu rằng cứu cánh của sự tu tập đạo Phật có tên gọi là Nibbana (Nirvana, Niết-bàn),
(Xem: 2351)
“Đức Phật nói: Như vậy, như vậy, như lời ông nói. Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí, chẳng phải là pháp tạo tác, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp tạo tác.
(Xem: 3507)
Đức Phật cho rằng, bạn phải quan sát hơi thở như nó đang là-yathabhuta. Nếu hơi thở dài, bạn biết nó dài, nếu hơi thở ngắn, bạn biết nó ngắn.
(Xem: 4188)
Tâm là kinh nghiệm cá nhân, chủ quan về “điều gì” luôn luôn thay đổi, từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác.
(Xem: 3969)
“Cánh cửa bất tử đã mở ra cho tất cả những ai muốn nghe”, đây là câu nói của Đức Phật sau khi Ngài giác ngộ.
(Xem: 2900)
Trong các kinh thường ví chân tâm là viên ngọc, như viên ngọc như ý, viên ngọc ma ni, lưới Trời Đế Thích…Bài kệ này chỉ thẳng Viên Ngọc Tâm
(Xem: 3376)
Trong Nguồn thiền, Tổ Khuê Phong Tông Mật nói: “Người ngộ ngã pháp đều không, hiện bày chân lý mà tu là thiền Đại thừa”.
(Xem: 3515)
Trong Kinh Văn Thù quyển hạ có chép: Ngài Văn Thù thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn thì đệ tử của Ngài phân hóa bộ phái như thế nào?
(Xem: 4568)
Vấn đề Nam tôngBắc tông là một vấn đề tương đối rất cũ – cũ đến hơn một ngàn năm trăm năm kể từ ngày con người có được cái hạnh phúc biết đến giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 3898)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”
(Xem: 4787)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 4060)
Mất 11 năm khổ công tầm đạo, Đức Phật Thích Ca đã đạt đại giác ngộ sau 49 ngày quyết tâm thiền định dưới cội cây bồ đề.
(Xem: 3048)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”...
(Xem: 3794)
Một người không có trí nhớ, hoặc mất trí nhớ, cuộc đời người ấy sẽ ra sao?
(Xem: 3939)
Chí đạo vốn ở tâm mình. Tâm pháp vốn ở vô trụ. Tâm thể vô trụ, tánh tướng tịch nhiên, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng sanh chẳng diệt.
(Xem: 3108)
Trước khi nhập Niết-bàn, đức Phậtdi giáo tối hậu cho các chúng đệ tử: “Pháp và Luật mà Ta đã thuyết và qui định, là Đạo Sư của các ngươi sau khi Ta diệt độ.”
(Xem: 3629)
Phật giáo là một tổ chức cộng đồng (Samasambhaga) ra đời sớm nhất trong lịch sử nhân loại (-5 CN).
(Xem: 4470)
Đức Phật, một nhân vật lịch sử 3000 năm về trước, ra đời tại Bắc Ấn, là bậc giác ngộ toàn triệt, là bậc đạo sư với nghi biểu đặc biệt xuất hiện ở đời.
(Xem: 3743)
Con người sanh ra để hưởng thụ qua lục dục như tài, sắc, danh, thực, thùy (Ngủ nghỉ), .v.v. Con người trải qua một chu kỳ già, bệnh và cuối cùng là chết.
(Xem: 2274)
Nguyên bản: Teachings On The Eight Verses On Training The Mind. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma . Anh dịch: Thupten Jinpa. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 2643)
Phật tánh với thành Phật là hai vấn đề khác nhau, không thể đồng nhất được.
(Xem: 3053)
Kinh Tiểu Duyên (Aggaññasutta) trong tiếng Pali có nghĩa là kinh nói về nguyên nhân hay bài giảng về khởi nguyên các pháp.....
(Xem: 2742)
Đức Phật đã dạy về những sự thật này ngay khi ngài đạt đến Giác Ngộ như một phần của những gì được biết như Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất.
(Xem: 4609)
“Thiên đường có lối sao chẳng đi Địa ngục không cửa dấn thân vào”
(Xem: 4942)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 2841)
Kính lễ đạo sư và đấng bảo hộ của chúng con, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát! Sự thông tuệ của ngài chiếu soi như mặt trời, không bị che mờ bởi vọng tưởng hay dấu vết của si mê,
(Xem: 5305)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm
(Xem: 2870)
Trong phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên kinh Đại Bát Niết Bàn, nói về sự nhập Niết bàn của Đức Phật.
(Xem: 3309)
Trong số các vị Tổ sư của Thiền phái Vô Ngôn Thông, Viên Chiếu được xem là vị Thiền sư danh tiếng, lỗi lạc bậc nhất.
(Xem: 4396)
Nguyên tử giải phóng trở thành nguyên tử năng là đánh dấu thời đại đại phát minh của nhân loại. Là họa hay là phước tạm thời không bàn luận đến.
(Xem: 4963)
Luân hồinhân quả là hai sự kiện tương quan. Bởi chúng sanh còn nghiệp trái của nhân quả thiện ác nên mới bị luân hồi.
(Xem: 4724)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 3262)
Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa...
(Xem: 4570)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 4294)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 6161)
Mùa xuân là dịp để trở về, dừng bước chân hoằng hóa để quán chiếu mọi nhân duyên giữa đời.
(Xem: 3529)
Bản Pháp văn mà tôi giới thiệu ở đây, không phải là toàn văn được in trên giấy, mà chỉ là một phần gọn nhẹ và cô đọng, cắt bớt những giới luật khá khắt khe khó tiếp cận với người Tây phương, nên giản dị và dễ đi vào lòng người.
(Xem: 4051)
Trước đây rất lâu từ những năm 1930, người ta đã chất vấn, phê phán rằng những người theo Phật giáo không biết làm giàu.
(Xem: 6034)
Trong không gian mênh mông của vườn kinh điển Đại Thừa, Diệu Pháp Liên Hoa là đoá hoa vi diệu nhất mà chính Đức Thế Tôn đã ca ngợi
(Xem: 5434)
Trong cuộc sống, nếu một người mất đi niềm tin sẽ trở nên vị kỷ, bất cần và gặt hái khổ đau, dễ dàng bị tác động vào những...
(Xem: 4082)
Đức Phật đã dạy: "Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh." Tất cả mọi loài, ai cũng có cái tánh làm Phật. Mình hiểu lời Phật dạy một cách nôn na như vậy.
(Xem: 33160)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 3187)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâmtranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết.
(Xem: 4175)
Phật tánhthực tại tối hậu của chúng sanh và các bậc giác ngộ. Kinh Đại Bát Niết Bàn đã dùng nhiều từ để chỉ Phật tánh này
(Xem: 4748)
Kinh Biệt Giải Thoát Giới - tên gọi khác của Kinh Tư Lượng (Anumāna Sutta) - là bài kinh thứ mười lăm trong Majjhima Nikāya
(Xem: 3107)
Trong suốt hai ngàn năm lịch sử, đạo Phật luôn luôn có mặt trong lòng dân tộc Việt Nam khắp nẻo đường đất nước và gắn bó với dân tộc Việt Nam trong mọi thăng trầm vinh nhục.
(Xem: 3828)
Có nhiều bài kệ rất hay khi xướng lên hay khi tán tụng; hoặc giả khi mạn đàm Phật Pháp; nhưng cũng có lắm bài kệ...
(Xem: 3561)
Từ nhỏ, lúc mới vào chùa khi 15 tuổi của năm 1964 và năm nay 2020 cũng đã trên 70 tuổi đời và hơn 55 năm sống trong Thiền Môn
(Xem: 6565)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 2790)
Vấn đề thế giới địa ngụcvấn đề rất nhiều nghi vấn, những người theo đạo Phật thì tin có thế giới địa ngục, những người không theo đạo Phật thì không tin có thế giới địa ngục và có một hạng người thì nửa tin nửa ngờ.
(Xem: 3247)
Vấn đề tụng niệm một số người không nắm được giá trịnghĩa lý của nó nên có thái độ khinh thường, xem nhẹ, không quan tâm, không chú trọng cho việc làm này...
(Xem: 4602)
Phật tại thế thời ngã trầm luân, Kim đắc nhân thân Phật diệt độ, Áo não tự thân đa nghiệp chướng, Bất kiến Như Lai kim sắc thân.
(Xem: 3475)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant