Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Sự Phân Tích (về Con Đường Cao Quý Có Tám Phần)

31 Tháng Bảy 201903:37(Xem: 4777)
Sự Phân Tích (về Con Đường Cao Quý Có Tám Phần)

SỰ PHÂN TÍCH
(VỀ CON ĐƯỜNG CAO QUÝ CÓ TÁM PHẦN),


Kinh Tương Ưng Bộ - Analysis (The Noble Eightfold Path), Saṃyutta Nikāya -

Bhikkhu Sujato - Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến - Source-Nguồn: suttacentral.net

8

 

Tại thành phố Sāvatthī (Xá Vệ).

"Nầy các Tỳ Kheo, ta sẽ giảng dạy, và phân tích cho các ông nghe về con đường cao quý có tám phần. Khi ta nói, các ông hãy chú ý và lắng nghe."

"Bạch Thế Tôn, dạ vâng," họ cùng trả lời. Rồi, Đức Phật nói như sau:

"Con đường cao quý có tám phần là gì? Con đường nầy gồm có: cái-nhìn-đúng, suy-nghĩ-đúng, lời-nói-đúng, hành-động-đúng, nghề-nghiệp-đúng, nỗ-lực-đúng, tỉnh-thức-đúng, và thiền-định-đúng.

Và cái-nhìn-đúng là gì? Là cái nhìn có sự hiểu biết về sự đau khổ (hoặc là sự không như ý, hoặc là sự không hoàn hảo), về nguyên nhân của sự đau khổ, về (phương cách) chấm dứt sự đau khổ, và về con đường (thực hành) dẫn đến chấm dứt sự đau khổ. Đấy gọi là cái-nhìn-đúng.

Và suy-nghĩ-đúng là gì? Là suy nghĩ về sự buông xả (hoặc là sự từ bỏ các dính mắc), về lòng từ bi (hoặc là lòng tử tế), và về sự không-gây-hại (cho mình, cho người, và cho mọi sự vật). Đấy gọi là sự suy-nghĩ đúng.

Và lời-nói-đúng là gì? Là không nói dối, không nói lời chia rẽ, không nói lời độc ác (hoặc là không tử tế), hoặc không nói lời vô nghĩa. Đấy gọi là lời-nói-đúng.

Và hành-động-đúng là gì? Là không giết hại các sinh vật, không trộm cắp, và không tà dâm. Đấy gọi là hành-động-đúng.

Và nghề-nghiệp-đúng là gì? Là khi mà một người đệ tử cao-quý từ bỏ nghề nghiệp (cũ) sai lầm, rồi họ sinh sống bằng một nghề nghiệp (mới) đúng đắn. Đấy gọi là nghề-nghiệp-đúng.

Và nỗ-lực-đúng là gì? Là khi một Tỳ Kheo tạo ra sự hăng hái, sự cố gắng, sự nỗ lực, họ dùng hết sức (qua thân tâm) của mình, và họ phấn đấu để cho những tính biếng nhác, tính xấu xa không phát sinh. Họ tạo ra sự hăng hái, sự cố gắng, sự nỗ lực, họ dùng hết sức (qua thân tâm) của mình, và họ phấn đấu để cho những tính biếng nhác, tính xấu xa mà đã phát sinh, không còn nữa. Họ tạo ra sự hăng hái, sự cố gắng, sự nỗ lực, họ dùng hết sức (qua thân tâm) của mình, và họ phấn đấu để cho những tính hăng hái, tính tốt đẹp mà chưa phát sinh, nay được phát sinh. Họ tạo ra sự hăng hái, sự cố gắng, sự nỗ lực, họ dùng hết sức (qua thân tâm) của mình, và họ phấn đấu để cho những tính hăng hái, tính tốt đẹp mà đã phát sinh, không bị mất mát đi, mà còn trưởng thành, tăng trưởng thêm, rồi được hoàn thành bởi sự phát triển nầy. Đấy gọi là nỗ-lực-đúng.

Và tỉnh-thức-đúng là gì? Là khi một Tỳ Kheo thiền định bằng cách quan sát thân thể (qua một phần, hoặc là qua một đặc tính của thân thể), họ hăng hái, nhận biết, và tỉnh thức, và họ loại bỏ đi lòng tham muốn, lòng sân hận đối với thế gian. Họ thiền định bằng cách quan sát các cảm giác (qua một phần, hoặc là qua một đặc tính của cảm giác), họ hăng hái, nhận biết, và tỉnh thức, và họ loại bỏ đi lòng tham muốn, lòng sân hận đối với thế gian. Họ thiền định bằng cách quan sát tâm (qua một phần, hoặc là qua một đặc tính của tâm), họ hăng hái, nhận biết, và tỉnh thức, và họ loại bỏ đi lòng tham muốn, lòng sân hận đối với thế gian. Họ thiền định bằng cách quan sát các sự vật trong thực tại (qua một phần, hoặc là qua một đặc tính của các sự vật trong thực tại), họ hăng hái, nhận biết, và tỉnh thức, và họ loại bỏ đi lòng tham muốn, lòng sân hận đối với thế gian. Đấy gọi là tỉnh-thức-đúng.

Và thiền-định-đúng là gì? Là khi một Tỳ Kheo hoàn toàn sống (thiền) tách biệt ra khỏi các thú vui nhục dục, tách biệt ra khỏi các tính biếng nhác và không tốt đẹp, họ bước vào và ở lại tầng thiền thứ nhất, nơi họ có sự vui sướng và niềm an lạc phát sinh ra từ sự tách biệt, trong khi họ hướng đặt tâm, và tiếp tục giữ tâm kết nối. Và khi họ hãy còn hướng đặt tâm, và tiếp tục giữ tâm kết nối, họ bước vào và ở lại tầng thiền thứ nhì, nơi họ có sự vui sướng và niềm an lạc phát sinh ra từ thiền định, tâm họ có sự trong sáng và sự tự tin, tâm họ thống nhất, mà họ không cần hướng đặt tâm, và tiếp tục giữ tâm kết nối. Và với sự vui sướng dần dần biến mất, họ bước vào và ở lại tầng thiền thứ ba, nơi mà họ thiền định với sự bình thản, tỉnh thứcnhận biết, họ tự trải nghiệm sự an lạc, mà những người cao quý nói rằng, 'Bình thản và tỉnh thức, người thiền định sống trong an lạc.' Họ từ bỏ các sự vui sướngđau khổ, và chấm dứt niềm hạnh phúc và sự buồn rầu, mà họ đã có trước đây, họ bước vào và ở lại tầng thiền thứ tư, nơi họ không còn sự vui sướng hoặc là đau khổ, và họ có được sự bình thản trong sáng và có sự tỉnh thức. Đấy gọi là thiền-định-đúng.

GHI CHÚ CỦA NGƯỜI CHUYỂN NGỮ:

- The Four Noble Truths = Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế)‎

- Sự tỉnh thức là gì? là một trạng thái tinh thần mà một người đạt được, khi họ tập trung sự nhận biết vào một thời điểm hiện tại.

- The Noble Eightfold Path = Con Đường Cao Quý Có Tám Phần (Bát Chánh Đạo)

1) Right View (Right Understanding) = Cái-Nhìn-Đúng, hoặc là Hiểu-Biết-Đúng (Chánh Kiến)

2) Right Thought (Right Intention, Right Resolve) = Suy-Nghĩ-Đúng, hoặc là Ý-Định-Đúng, hoặc là Quyết-Định-Đúng (Chánh Tư Duy)

3) Right Speech = Lời Nói Đúng (Chánh Ngữ)

4) Right Action = Hành Động Đúng (Chánh Nghiệp)

5) Right Livelihood = Nghề Nghiệp Đúng (Chánh Mạng)

6) Right Effort = Nỗ Lực Đúng (Chánh Tinh Tấn)

7) Right Mindfulness = Tỉnh Thức Đúng (Chánh Niệm)

8) Right Immersion (Right Meditation, Right Concentration) = Thiền Định Đúng, hoặc là Tập-Trung-Đúng (Chánh Định)

 

Analysis (The Noble Eightfold Path),
Saṃyutta Nikāya -
Bhikkhu Sujato - Source-Nguồn: suttacentral.net

 

At Sāvatthī.

“Mendicants, I will teach and analyze for you the noble eightfold path. Listen and pay close attention, I will speak.”

“Yes, sir,” they replied. The Buddha said this:

“And what is the noble eightfold path? It is right view, right thought, right speech, right action, right livelihood, right effort, right mindfulness, and right immersion.

And what is right view? Knowing about suffering, the origin of suffering, the cessation of suffering, and the practice that leads to the cessation of suffering. This is called right view.

And what is right thought? It is the thought of renunciation, good will, and harmlessness. This is called right thought.

And what is right speech? Avoiding speech that’s false, divisive, harsh, or nonsensical. This is called right speech.

And what is right action? Avoiding killing living creatures, stealing, and sexual activity. This is called right action.

And what is right livelihood? It’s when a noble disciple gives up wrong livelihood and earns a living by right livelihood. This is called right livelihood.

And what is right effort? It’s when a mendicant generates enthusiasm, tries, makes an effort, exerts the mind, and strives so that bad, unskillful qualities don’t arise. They generate enthusiasm, try, make an effort, exert the mind, and strive so that bad, unskillful qualities that have arisen are given up. They generate enthusiasm, try, make an effort, exert the mind, and strive so that skillful qualities that have not arisen do arise. They generate enthusiasm, try, make an effort, exert the mind, and strive so that skillful qualities that have arisen remain, are not lost, but increase, mature, and are fulfilled by development. This is called right effort.

And what is right mindfulness? It’s when a mendicant meditates by observing an aspect of the body—keen, aware, and mindful, rid of desire and aversion for the world. They meditate observing an aspect of feelings—keen, aware, and mindful, rid of desire and aversion for the world. They meditate observing an aspect of the mind—keen, aware, and mindful, rid of desire and aversion for the world. They meditate observing an aspect of principles—keen, aware, and mindful, rid of desire and aversion for the world. This is called right mindfulness.

And what is right immersion? It’s when a mendicant, quite secluded from sensual pleasures, secluded from unskillful qualities, enters and remains in the first absorption, which has the rapture and bliss born of seclusion, while placing the mind and keeping it connected. As the placing of the mind and keeping it connected are stilled, they enter and remain in the second absorption, which has the rapture and bliss born of immersion, with internal clarity and confidence, and unified mind, without placing the mind and keeping it connected. And with the fading away of rapture, they enter and remain in the third absorption, where they meditate with equanimity, mindful and aware, personally experiencing the bliss of which the noble ones declare, ‘Equanimous and mindful, one meditates in bliss.’ Giving up pleasure and pain, and ending former happiness and sadness, they enter and remain in the fourth absorption, without pleasure or pain, with pure equanimity and mindfulness. This is called right immersion.”


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4035)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3572)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 4928)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6514)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 3893)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 3996)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5225)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3685)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4406)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3449)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3828)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4290)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5290)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3738)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3827)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3773)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4693)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4423)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4152)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3733)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4490)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4072)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 5964)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4491)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4853)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4071)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4731)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5573)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3537)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 3942)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4504)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5174)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3060)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4639)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4445)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4182)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4656)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4388)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4500)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7094)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5094)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 4891)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4491)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5518)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5177)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4064)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 5884)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4594)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4783)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5367)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5476)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5688)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
(Xem: 4906)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 4259)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
(Xem: 4572)
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn.
(Xem: 4605)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng...
(Xem: 5766)
Có một chuyện rất khoa học, tôi không bắt quý vị phải nhắm mắt tin Phật nhưng tôi cho quý vị một gợi ý.
(Xem: 3238)
Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.
(Xem: 5164)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn
(Xem: 2866)
Hạnh phúctrạng thái cảm xúc khi ta thỏa mãn được nhu cầu nào đó của bản thân. Hạnh phúc khi được nhận. Có một loại hạnh phúc khác mà cảm xúc mang đến cho bạn nhiều hơn nữa: Đó là hạnh phúc từ sự cho đi.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant