Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thư Mục

04 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 9940)
Thư Mục


Đức Đạt Lai Lạt Ma
TU TU
Bản tiếng Anh: Practicing Wisdom - Nhà xuất bản Wisdom
Bản tiếng Pháp: Pratique de la Sagesse - Nhà xuất bản Presses du Châtelet
Bản dịch Việt ngữ: Hoang Phong - Nhà xuất bản Phương Đông TP. Hồ Chí Minh 2008

Thư Mục

Văn bản trích dẫn

Kinh điển

Pratityasamutpada adivibhanga nirdesha sutra (rten cing ‘brel bar ‘byung ba dang po dang rnam par dbye ba bstan pa), mdo sde, quyển tsha, 123b-125a, trích trong Kinh sách Kangyur (T 221). [Duyên khởi kinh].

Prajnaparamita Hridayana Sutra (shes rab kyi pha rol du phyin pa’i snying po), sbes pbyin, quyển ka, 144b-146a, trích trong Kinh sách Kangyur (T 21). [Tâm Kinh].

Các kinh sách gốc Ấn độ

Aryadeva (Thánh Thiên) : Tập luận Bốn trăm Tiết, Chatubshatakashastra (rnal ‘byaor spyod pa bzhi brgya pa), dbu ma, quyển tsha, 1b-18a, trích trong Bộ Luận Tengyur (T 3944).
[Quảng bách luận].

Aryashura : Sách giản yếu về sự Hoàn thiện, Paramitasamasa (pha rol du phyin pa bsdus pa), dhu ma, quyển khi, 217b-235a, trích trong Bộ Luận Tengyur (T 3944).

Asanga (Vô Trước) : Những địa giới của người Bồ-tát, Bodhisattvabhumi (rnal ‘byor spyod pa’i sa las byang chub sems pa’i sa) sem tsam, quyển vi, 1b-213a, trích trong Bộ Luận Tengyur (T 4037). [Bồ-tát Địa].
- Sách giản yếu về A-tì-đàm (Thắng pháp), Abhidharmasamuccaya (chos mngo pa kun las btus pa), sem tsam, quyển ri, 1b-77a, 44b-120a, trong Tengyur (T4049). [A-tì-đạt-ma tập luận].
- Sự tiếp nối không tối thượng, Uttaratantra (theg pa chen po rgyud bla ma), sems tsam quyển phi, 54b-73a, trong Bộ Luận Tengyur (T4024)

Bhavaviveka (Thanh Biện) : Sách tự phê về các Tiết tâm điểm của Trung đạo, Tarkajvala (dbuma rtog ge ‘bar ba), dbu ma, quyển dza, trong Bộ Luận Tengyur (T 3856). [Trung quán tâm quang minh biện luận].

Chandrakirti (Nguyệt Xứng) : Minh giải các từ ngữ, Mulamadhyamakavritti-Prasannadapa, Bình giải tập Luận căn bản của Long Thọ (Nagarjuna) (dhu ma rtsa ba’i grel pa tshig gsal ba), dbu ma, quyển ha, 1b-200a, trong Bộ Luận Tengyur (T3860). [Căn bản Trung quán luận thích]. 
- Bình giải về tập luận Bốn trăm Tiết của Thánh Thiên (Aryadeva), Chatushatakatika (bshi brgya pa’i rgya cher ‘grel pa), dbu ma, quyển ya, 30b-239a, trong Tengyur (T 3865). [Chú thích Tứ bách Luận tập].
- Nhập môn về Trung đạo, Madhyamakavatara (dbu ma la ‘jug pa), dbu ma, quyển ha, 201b-219a, trong Bộ Luận Tengyur (T 3861). [Nhập Trung đạo].
- Ngõ vào Trung đạo, sách dịch dựa theo bản gốc bằng tiếng Tây tạng, phát hành Boisset-và-Gaujac, nhà xuất bản Dharma, 1988. 

Dharmakirti (Pháp Xứng) : Luận giải về sự hợp lý, Pramanavarttika (tshad ma rnam n’grel gyi tsbig le’ur byas pa), tshad ma, quyển ce, 94b-151a, trong Bộ Luận Tengyur (T 4210). [Lượng thích luận].

Nagarjuna (Long Thọ hay Long Thụ) : Luận giải về tâm thức Giác ngộ, Bodhicittavivarana (byang chup sems kyi n’grel pa), rgyud, quyển ngi, 38a-42b, 42b-45a, trong Bộ Luận Tengyur (T 1800 và 1801).
- Sách giản yếu vể kinh sách soutra, Sutrasamuccaya (mdo kunn las nbtus pa), dbu ma, quyển ki, 148b-215a, trong Bộ Luận Tengyur (3934). [Kinh luận Tập].
- Vòng bảo châu, Ratnavali (rgyal po la gtam bya ba rin po che’i phreng ba) spring yig, quyển ge, 107a-126a, trong Bộ Luận Tengyur (T4158). [Bảo hành vương chính luận].
- Tập luận căn bản về Trung luận, còn gọi là « Sự Hiểu biết », tập luận căn bản, Mulamadhyamakakarika (dbu ma rtsa ba’i tshig le’ur byas pa),dbu ma, quyển tsa, 1b-19a, trong Bộ Luận Tengyur (T3824). [Căn bản Trung quán Luận tụng].

Prajnakaramati : Luận giải những điểm khó trong tập Nhập Bồ - đề hành Kinh (Bodhicaryavatara), Bodhicaryavatarapanjika (byang chub gyi spyod pa la’jug pa’i dka’ ‘grel), dbu ma, quyển la, 288b-349a, trong Bộ Luận Tengyur (3873).

Shantarakshita (Tịch Hộ): Trang trí cho Trung đạo, Madhyamakalamkara (dbu ma rgyan gyi tshig le’ur byas pa), dbu ma, quyển sa, 53a-56b, trong Bộ Luận Tengur (T 3884).

Shantideva (Tịch Thiên) : Sách giản yếu về tu tập, Shikshasamuccaya (bslab pa kun las btus pa), dbu ma, quyển khi, 3a-194b, trong Bộ Luận Tengyur (T 3940).
- Hành trình đến giác ngộ, Bodhicaryavatara (byang chub sems pa’i spyod pa la ‘jug pa), dbu ma, quyển la, 1b-40a) trong Bộ Luận Tengyur (T 3871). Bản dịch tiếng Pháp : Nhà xuất bản Padmakara, 1992. [Hành trình đến Giác ngộ].

Vasubandhu (Thế Thân) : Kho báu A-tì-đạt-ma, Abhidharmakosha (chos mngo pa mdzod kyi tsbig le’ur byas pa), mngon pa, quyển ku, 1b-25a, trong Bộ Luận Tengyur (T 4089). [A-tì-đạt-ma câu xá luận bản tụng].

Vài sách bình giải về chương IX tập luận 
Hành Trình đến giác ngộ

Khentchen Kungzang Palden : Thưốc trường sinh trong những lời của Văn-thù Sư-lỵ (Manjushri), Byang chub sems dpa’i spyod pa la ‘jug-pa tsbig’grel’jam dbyangs bla ma’i zbal lung bdud risi’i tbigs-pa. Toàn bộ, quyển 1, Nhà xuất bản Lama Ngodrup (Dilgo Rinpoché, Paro (Bouthan), 1982.

Minyak Kunzang Seunam : Ngọn đuốc rực sáng I và II, Shesrab le’u’i spyi don rim par phye bazab mo rten ‘byung gi de kho na nyid yang qsal sgron me và Shes rab le’u’i gzhung ‘grel, Grande Imprimerie de Dergué (bản khắc gỗ), và bản in Bod kyi shes rig spar khang, Bắc kinh, 1990.

Thuốc trường sinh trong những lời của Van-thù Sư-lỵ và Ngọn đuốc rực sáng, in chung trong một tập : tựa là « Hiểu biết Tánh không » (Comprendre la Vacuité), sách bằng Pháp, văn dịch từ tiếng Tây tạng, do Ủy ban dịch thuật Padmakara phụ trách, Nhà xuất bản Padmakara, Saint-Léon-sur-Vézère (Pháp quốc), 1993.

Mipam Rinpoché (mi pham phyogs las rnam rgyal) : « Luận giải về chương chín tập Hành trình đến giác ngộ », trong tài liệu Expanded Redaction of the complete Works of Ju Mipham Series, quyển 14 (Ca), do Lama Ngodrup xuất bản cho Dilgo Khyentsé Rinpoché, Paro, 1984-1991.
- Viên ngọc sáng ngời (Nor bu nke ta ka), do Stéphane Arguillère, giới thiệu và dịch thuật, dưới tựa đề « Trésor du Bouddhisme » (Kho tàng Phật giáo), Nhà xuất bản Fayard, Paris, 2004.

Đức Đạt-Lai Lạt-Ma : Khi nào còn không gian, sách Pháp ngữ do Marie-Stella Boussemart dịch từ tiếng Tây tạng, dưới sự chỉ dẫn của Dagpo Rinpoché, tựa đề « Tant que durera l’Espace », bộ sách « Spiritualité », Nhà xuất bản Albin Michel, Paris, 1996.

Djé Tsongkhapa (Tông-khách-ba): Sự trong sáng của Tâm thức (Clarté de l’esprit) (blo gsal-ba).

Gyaltsab Darma Rintchen : Đà nhảy vọt của các vị Bồ-tát (Le tremplin des Bodhisattvas) (Darthik rGyal sras ‘jug ngogs).

Shétchen Gyaltsab Péma Namgyal : « Hai cách bình giảng về chương IX », Œuvres comlplètes, quyển tha, Paro, 1985.

Giáo huấn về tám chương đầu tiên của tập luận Hành trình đến giác ngộ, do Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giảng dạy tại vùng Dordogne (Pháp Quốc) vào năm 1991

Đức Đạt-Lai Lat-Ma : Như một tia chớp xé rách đêm đen (Comme un éclair déchire la nuit), Nhà xuất bản Albin Michel, Paris, 1992. 

Các bản dịch sang tiếng Pháp của tập luận 
Hành trình đến giác ngộ (Bodhicaryavatara)

Hành trình vào ánh sáng (La marche à la lumière), do Louis Finot dịch, Nhà xuất bản Brossard, 1920 ; Nhà xuất bản Les Deux Océans, Paris, tái bản năm 1987. 

Hành trình đến giác ngộ (La marche vers l’éveil), bản dịch do Ủy ban dịch thuật Padmakara đảm trách dựa theo bản dịch của Louis Finot, Nhà xuất bản Padmakara, 1992.

GHI CHÚ

1- Hành trình đến Giác ngộ : tiếng Phạn là Bodhivacaryâvatâra, bản dịch sang tiếng Hán có tên là Nhập Bồ-đề Hành luận

3- Tịch Thiên : Shântideva (còn viết là Sântideva) là một vị Cao tăng người Ấn, sinh vào khoảng cuối thế kỷ thứ VII hay đầu thế kỷ thứ VIII, ngày chết không ai biết. Ông là con vua Kalyânavaraman. Khi còn nhỏ, ông được một nhà tu khổ hạnh truyền cho giáo pháp của Bồ-tát Văn Thù (Mansjuri), ông tu tập rất chuyên cần và đã đắc đạo. Khi vua cha qua đời, ông nhất định không lên ngôi kế vị, bỏ trốn vào Tu viện Đại học Na-lan-đa, thụ giới làm một nhà sư. Ông thường thức một mình trong đêm và soạn được hai bộ sách nối tiếng là Siksâmuccaya (Bồ-tát học luận), sách giản yếu về giáo huấn, và tập Sûtrasâmuccaya (Kinh luận), sách giản yếu về kinh điển, tập sách này thất truyền, chỉ còn bản dịch bằng tiếng Hán. Cả tu viên không ai hay biết gì về việc soạn thảo hai tập luận này của ông. Vì chưng ông ngủ li bì suốt ngày, các vị thầy của ông và các vị đồng tu đều cho ông là người lười biếng, ngu đần và đặt cho ông biệt hiệu bhushuku, có nghĩa là « người chỉ biết ăn, ngủ và tiêu hoá ».

Những người trong tu việný định muốn tống khứ ông, nên đồng tình dựng lên một đàn thuyết giảng, còn gọi là cái ngai, nhưng lại dựng rất cao, rất khó trèo lên, sau đó mới ông lên thuyết giảng. Chưa dứt lời mời đã thấy ông ngồi chểm trệ trên ngai. Mọi người đều kinh ngạc. Ông liền cất tiếng giảng về Nhập Bồ-đề Hành luận (tức tập Hành trình đến giác ngộ). Khi giảng đến chương chín, và lúc ông thốt lên câu này : « Khi không còn một sự hiện thực nào hay một sự phi-hiện-thực nào nữa hiển hiện ra trong tâm thức… », chưa dứt câu, mọi người bổng thấy ông vọt lên không trung đứng bên cạnh Bồ-tát Văn Thù. Trong lúc ấy trên đàn thuyết giảng tuy đã trống không, nhưng người ta vẫn nghe văng vẳng tiếng ông thuyết giảng cho đến câu cuối cùng.

Vì muốn ghi lại bài giảng của ông, nên mọi người đã họp nhau moi lại trí nhớ và chép thành hai bản, một bản gồm 700 câu tứ tuyệt, một bản gồm 1000 câu tứ tuyệt. Sau đó tu viện gởi sứ giả đi tìm ông, và mời ông về chùa. Ông chỉ nhận duyệt xét lại hai bản thảo, và cho rằng bản 1000 câu tứ tuyệt gần với lời giảng của ông hơn, ông lại còn chỉ chỗ cất hai tập sách của ông trong chùa, nhưng ông không trở về nữa. Sau đó ông trở thành một người du-già phiêu bạt. Tiếng đồn ông thường đấu lý với các vị thầy ngoài Phật giáo vào thời ấy và ông đã thực hiện nhiều phép mầu nhiệm để giúp đỡ những người hoạn nạn khắp nơi. Nhưng về sau không còn ai biết ông ở đâu nữa.

2- Lục độ, còn gọi là Lục Ba-la-mật-đa gồm có : bố thí, giới luật, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền địnhtrí tuệ

3- Tam bảo : Phật, Đạo PhápTăng đoàn.

4- Long Thọ : (Nagarjuna), còn gọi là Long Thụ, (cuối thế kỷ thứ I- sang thế kỷ thứ II), là một trong những vị luận sư vĩ đại nhất trong lịch sử Phật giáo, có công tái lập lại trường phái Đại thừa trong Phật giáo.

5 Vô trước : (Asanga), một vị Đại sư người Ấn sinh vào thế kỷ thứ sáu, sáng lập Duy thức tông.

6- Tịch Hộ : (Shantarakshita) (750-802), cao tăng người Ấn, tuy thuộc Trung quán tông, nhưng ông chủ trương dung hòa và liên kết với Duy thức, nêu lên những điểm cao siêu và phù hợp giữa hai học phái và tạo ra Trung quánDuy thức tông.

7- Liên Hoa Sinh : (Padmasambhava), (thế kỷ thứ VIII -đầu thế kỷ thứ IX), là một vị Đại sư người Ấn, sang truyền bá đạo PhậtTây tạng trong thế kỷ thứ VIII, uy danhcông lao của ông rất lớn và được người Tay tạng xem như một vị Phật thứ hai.

8- Trisongdetsen : (742-797) vua Tây tạng, có công giúp đỡ và thiết lập Phật giáo trong nước. Ông là vị vua rất giỏi, cả về tôn giáo lẫn chính trị, ông đưa đạo Phật lên hàng quốc giáo. Dưới triều đại của ông, nước Tây tạng rất phồn vinh, về phía Bắc lãnh thổ mở rộng đến vùng Đôn hoàng (tỉnh Cam Túc, Tây bắc nước Tàu), nơi có nhiều hang động chứa những di tích phật giáo nhiều nhất trên thế giới, về phía Tây lãnh thổ mở rộng sang gần hết miền Trung Á, về phía Nam gồm chung cả Nepal và Nam Hy-mã-lap-sơn. 

9- Prajnaparamitasutra : Bát-nhã ba-la mật-đa kinh.

10- Thập nhị nhân duyên.

11- Pháp Xứng : (Dharmakirti) (600 ? - 650), một đại luận sưtriết gia, tiêu biểu của Duy thức tôngNhân minh học.

12- Ánh sáng trong suốt : thể dạng tâm linh trong sángtinh tế nhất không còn vướng mắc bất cứ một yếu tố thô thiển nào, chẳng hạn như cấp bậc thâm sâu nhất trong quá trình chuyển tiếp giữa hai kiếp sống.

13- Bốn trăm tiết : tiếng Phạn là Catushataka, có lẽ đây là tập luận có tên tiếng Hán là Quảng Bách Luận Bản (?) do Huyền Trang dịch. Kinh Bốn trăm tiết là trước tác của Thánh Thiên Bồ-tát còn gọi là Độc nhãn Bồ-tát, người gốc Tích lan (Sri Langka), sinh vào thế kỷ thứ II (?), là một đệ tử của Long Thọ, từng trụ trì rất lâu ở Tu viện Đại học Na-lan-đà trước khi trở về Tích lan.

14- Giản yếu về Giáo huấn : tiếng Phạn Siksâsamuccaya, bản dịch sang tiếng Hán gọi là Bồ-tát Học luận.

15- Tập luận Madhyamakalankara (?).

16- Mipham : (1849-1912) một học giả lỗi lạc của Tây tạng thuộc trường phái Ninh mã, cũng có bình giải chương IX tập Hành trình đến Giác ngộ.

17- Tông-Khách-Ba : (Tsongkhapa) (1357-1419) Đại sưhọc giả Tây tạng, sáng lập trường phái Cách lỗ.

18- Có tính cách đối nghịch hay đối đãi lẫn nhau : chẳng hạn như có đi đôi với không. Trắng có thể hiểu ngầm là phải có đen, nếu chỉ có trắng và chưa hề bao giớ có đen thì trắng chẳng có nghĩa gì cả.

19- Có lẽ là Boutön Rinchen Droup (1290-1364), một vị Đại sưvăn hào Tây tạng, chuyên về kinh sách Tan-tra thế hệ mới.

20- Tức là Tam giới : Dục giới, Sắc giớiVô sắc giới.

21- Tiền đề : đề nghị thứ nhất trong cách suy diễn bằng tam đoạn luận.

22- Câu này đại khái có nghĩa là nếu tất cả đều là tánh không thì tu tập cái gì và giác ngộ cái gì bây giờ ?

23- Thanh Biện : (Bhavaviveka), (thế kỷ thứ IV hay thứ IV ?), gốc người miền Nam Ấn độ, từng tu học tại Đại học Tu viện Na-Lan-đa. Ông là một triết gialuận sư nổi tiếng thuộc Trung đạo, lưu lại nhiều trước tácquan trọng. 

24- Câu này có nghĩa là theo quan điểm của Trung đạo nếu thực tínhtánh không thì những xứng đáng tích lũy vào chỗ nào.

25- ad libitum : tiếng La tinh trong nguyên bản. Tạm dịch là tùy thích hay tùy ý thích (của mỗi người).

26- Pháp thân : một trong Tam thân (Trikâya) của Phật : Pháp thân (Dharmakâya), Báo thân (Sambhogkâya), Ứng thân (Nirmânakâya).

27- Đây là những vết hằn trong tâm thức, tức là nghiệp.

28. Ngoại vật hoá : là một từ triết học chỉ định sự tạo dựng một vật thể độc lậptự chủ bên ngoài (so với chủ thể đã tạo dựng đối tượng đó). Câu trong sách của Tịch thiên có nghĩa là hãy cẩn thận, đừng để sự nhắc nhở hay thiền định về Tánh không đưa đến tình trạng hình dung ra Tánh không như một vật hiện thật một cách cụ thể bên ngoài ta.

29- Có nghĩa là những người đã chiến thắng được vô minh và đã giác ngộ.

30- Chẳng hạn như tiềm thức (subconscience, subconscious) là một khám phá quan trọng của Tây phương về tâm lý học trong thế kỷ XX do Sigmund Freud đề xướng. Nhưng thật ra tiềm thức theo định nghĩa và sự hiểu biết trong tâm lý học Tây phương chỉ là một phần nhỏ so với những gì gọi là a-lai-gia thức trong Phật giáo, được Phật giảng dạy đã hơn hai ngnhìn năm trăm năm.

31- Thật vậy, Tây phương từ lâu đã thừa hưởng những truyền thống tinh thần hay tâm linh có phần quá thô sơ. Những truyền thống này thường đi ngược và không còn thích ứng được với sự hiểu biết và sức phát triển khoa học kỷ thuật ngày nay. Xã hội Tây phương lâm vào tình trạng thiếu thăng bằng giữa sự hiểu biết nội tâm, có khi còn ấu trĩ, và sự phát triển cao độ về khoa học đối với thế giới vật chất bên ngoài. 

32- Véda : Kinh Phệ-đà là các kinh luân căn bản của đạo Bà-la-môn.

33- Tức là Tam thập thất đạo phẩm : những thành phần hỗ trợ cho giác ngộ : Tứ niệm xứ, Tứ chính cần, Tứ thần túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi, Bát chánh đạo.

34- Nirmanakaya : ứng thân, còn gọi là ứng hoá thân hay hoá thân…là một trong tam thân của Phật. Ứng thân là thân biến hoá, xuất hiện qua thân xác con người trong thế giới này để cứu độ chúng sinh. Hai thân khác của Phật là : Báo thân (sambhogakaya) còn gọi là Thụ dụng thân, và Pháp thân (dharmakaya) tức là Chân như, là thân xác Đạo Pháp của Phật.

35- Kim cương thủ Bồ-tát : (Vairapani), là một vị Đại Bồ-tát cùng thời với Phật.

36- Mandala : dịch âm là man-đa-la, dịch nghĩa là cái vòng tròn. Man-đa-la là một khái niệm quan trọng của Kim cương thừa. Đó là một tranh vẽ gồm nhiều cảnh vật và hình tướng, biểu tượng của vũ trụnăng lực của vũ trụ, dùng để tập trung thiền định.

37- Terma : dịch âm là Ter-ma, dịch nghĩa là « Báu vật ». Đó là những kinh sách xưa, được dấu kín trong những nơi thật bí mật, chỉ có thể khám pha ra khi cơ duyên đã hội đủ. Người khám pha ra thường là những người tu học cao thâm, có những linh cảm thần bí, có khi cũng cần nhờ vào linh ảnh hay những giấc mơ khác thường hướng dẫn. Theo tục truyền chính Long Thọ cũng là người đã phát hiện ra các kinh sách dấu kín Ter-ma. 

38- Kalachakra : Kinh Thời luân (« Bánh xe thời gian), là một bô kinh quan trong của Phật giáo Tây tạng, xuất hiện vào thế kỷ thứ X.

39- Là hai Đại đệ tử của Phật.

40- Svabhava : kinh sách Hán-Việt gọi là Tự tính hay Tự thể. 

41- Ma-ha Ca-diếp : (Mahakshyapa), là một trong những đệ tử xem như xuất sắc nhất của Phật và đã được Phật truyền tâm ấn trước khi tịch diệt

42- Introspection : các tự điển dịch là nội quan, nội tỉnh, hay phản tỉnh. Tôi nghĩ rằng cũng có thể dịch là nội quán, có nghĩa là một chủ thể tự quán xét những thể dạng tri thứcđời sống nội tâm của chính mình theo một phương thức nào đó.

43- Tức là Phật.

44- Một học giả thuộc thế kỷ XVIII và thuộc trường phái Cách-lỗ (Guélougpa).

45- Theo các học giả Tây phương kinh sách Tiểu thừa xuất hiện từ cuối thế kỷ thứ I trước Tây lịch đến giữa thế kỷ thứ I sau Tây lịch, kinh sách Đại thừa xuất hiện vào đầu thế kỷ thứ I trước Tây lịch đến thế kỷ thứ VI sau Tây lịch (đối với các kinh sách xuất hiện muộn). Do đó trên phương diện kinh sách ghi chép bằng chữ viết, không thể nói được là kinh sách Tiểu thừa xuất hiện trước kinh sách Đại thừa, tuy rằng có một số kinh sách Đại thừa xuất hiện khá muộn. Trước đó, tức từ khi Phật tịch diệt, tăng đoàn học thuộc lòng những lởi giảng huấn của Phật và truyền tụng cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác. Thời bấy giờ những gì truyền miệng bằng cách thuộc lòng mang nhiều tính cách thiêng liêng hơn là những gì ghi chép bằng chữ viết. Cũng có giả thuyết cho rằng kinh sách đã được ghi chép bằng chữ viết trong lần kết tập thứ hai, tức khoảng 100 năm sau khi Phật tịch diệt, nhưng theo các học giả Tây phương không có những bằng chứng chính xác

46- Dromteunpa : (1005-1064) là đại đệ tử của A-đề-sa (Atisha) (982-1054), A-đề-sa là người sáng lập ra tông phái Cam-đan (Kadampa).

47- Tùy theo tôn giáo, lòng từ bi giới hạn ở cấp bậc con người hay trải rộng đến toàn thể tất cả mọi sinh linh có giác càm.

47- Tư duy trong quá khứ đã biến mất, tư duy trong tương lai chưa có.

48- Có tính cách định hướng rõ rệt và nhất định. Đây là một khái niệm về khoa học và triết học. Khi một vật thể làm đon vị phi hướng xạ thì nó không thể kết hợp được với một vật thể đơn vị đồng loại khác. Hai đơn vị ấy phải có hai mặt (hướng) « ăn khớp » với nhau. Ví dụ ta tưởng tưọng ra một khoảnh khắc cực vi của thời gian làm đơn vị, nếu nó không nối với một khoảnh khắc trước đó (quá khứ) và một khoảnh khắc sau đó (tương lai) thì nó không thể là thời gian được. Do đó bất cứ một đơn vị sơ đẳng nào cũng vướng vào điều kiện và mang những dặc tính hướng xạ : « đơn vị thời gian » có hai hướng, một hướng nối với « đơn vị » đã qua và một hướng nối với « đơn vị » sắp tới. Vậy không thể nào đi đến chỗ phi điều kiện của mọi vật thề và hiện tượng, và đó cũng là tính cách tương liên, tương kết và tương tạo của chúng. Nếu vật thể và hiện tượng vượt ra khỏi những nguyên nhânđiều kiện tạo ra chúng thì những vật thể và hiện tượng ấy không còn có nghĩa nữa tức không thể nào hiện hữu được.

49- Shamata : Sự dừng lại, Định, còn gọi là Duy chỉ, Nhất tâm. Đó là phép thiền tập trung tâm ý.

50- Vipashyana : Quán, Sự quán sát bằng Trí tuệ, tức là cách thiền định bằng phân giải, quan sát và phân tích nhũng hiện tượng chung quanh. Chỉ và Quán là hai phép thiền định : An bình tâm thức và Quán thấy bản thể vô thường và trống không của mọi hiện tượng. Kết hợp hai phép thiền định này gọi là Chỉ Quán

51- Một triết gia người Ấn sáng lập một trường phái triết học chủ trương tìm kiếm hạnh phúc trong đời sống hiện tại thuộc thế giới này. Người ta dùng thẳng tên ông để đặt tên cho trường phái triết học này

52- Một bộ kinh mang tính cách trung gian giữa Tiểu thừaĐại thừa



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26630)
Nếu Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc an lạc, nếp sống ấy cũng là một nếp sống đề cao cho con người vào một vị trí tối thượng...
(Xem: 13055)
Theo Luận Ðại thừa khởi tín, Nhứt Tâm có hai tướng: (1) tướng Chân như, chỉ riêng về phần thể tánh chơn tâm thanh tịnh; dụ như "tánh trong sạch" của nước...
(Xem: 27011)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 32841)
Acarya Nagarjuna (A Xà Lê Long Thọ) giữ một địa vị hầu như vô song trong hàng các bậc Thánh Phật giáo trình bày xiển dương lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni cho lợi lạc của thế giới.
(Xem: 31642)
Bố thí là hạnh đầu tiên trong sáu hạnh của Bồ Tát. Nguyên âm chữ Phạn là Dàna có nghĩa là sự cho, dịch sang tiếng Hán Việt là Bố thí.
(Xem: 32564)
Bát Chánh Đạo rất dễ nhớ, nhưng ý nghĩa của chúng thâm sâu và đòi hỏi một sự hiểu biết về nhiều lãnh vực liên quan trong giáo lý của Đức Phật.
(Xem: 13007)
Có nhiều loại giác ngộ, nhưng bản chất của giác ngộ thì chỉ có một, đó là phá vỡ bức tường ngăn ngại của vô minh để ánh sáng của tự tánh, Phật tánh được dịp bùng lên.
(Xem: 12140)
Lời dạy của đức Phậtpháp môn phương tiện, chứ không phải là chân lý. Vì vậy, học Phật là học pháp môn để tu tập, để chuyển hóa tâm thức, lời nói...
(Xem: 17493)
Không gian nhận thức bị giới hạn, vì thế nó hữu hạn. Khi bạn ngồi trong lớp học, không gian nhận thức bị bao bọc bởi các bức vách, nền nhà và trần nhà.
(Xem: 18716)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 12567)
Trong kinh Phật có dạy: Chúng ta phải cố gắng tu không thể chần chờ, bởi vì đâu có ai bảo đảm mình sống đến tám mươi tuổi mới chết. Trẻ có cái chết của trẻ...
(Xem: 11766)
Ý thứcvọng tưởng, là những mảnh vụn của tâm thể, là những áng mây đen che mờ mặt trăng tuệ giác, là những lượn sóng dấy động trên mặt biển chân tâm thanh tịnh...
(Xem: 13114)
Đức Phật dạy có năm sự khéo léo trong giao tiếp đem đến nhiều kết quả tốt đẹp. Theo ngài Xá Lợi Phất, không tuân theo năm cách xử sự này sẽ đem đến những hậu quả...
(Xem: 12196)
Trong đời sống chúng ta ai cũng có bản năng tự nhiên mong được hạnh phúc và thoát được đau khổ. Mong cầu được sung sướng là điều chính yếu của tất cả mọi người.
(Xem: 12485)
Khi ta cố chấp vào một sự việc thì tế bào thần kinh không có sự ráp nối dồi dào, khiến ta không nhận biết được những dữ kiện khác của sự thật. Ta trở thành người mù sờ voi...
(Xem: 11628)
Bằng Đạo Pháp, Phật mở ra cho ta một thế giới êm ả, an bìnhhạnh phúc, thay vì bước vào ta lại bước ra. Cái cánh cửa của thế giới đó ta không thấy...
(Xem: 11982)
Tôn chỉ Phật giáochí hướng cao siêu của một chân lý. Chí hướng của Phật là "Tự Giác Giác Tha", có nghĩa là tự mình giác ngộ, thức tỉnh trong giấc mộng vô minh...
(Xem: 10596)
Chúng ta tu Phật, nên biết nhân quả là một giáo lý căn bản của đạo Phật, không thể nào hiểu lơ là hay sơ sài, mà phải hiểu cho tường tận mới khỏi những ngờ vực.
(Xem: 10928)
Bởi con người mang sẵn tính tham lam, thói hèn nhát, nên khi muốn thỏa mãn sự mong cầu, muốn được bình an khi nguy hiểm, đều nảy sanh mê tín dị đoan.
(Xem: 28315)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 11164)
Ðạo Phật đã thấm sâu, đâm chồi, mọc rễ và lớn mạnh qua các lãnh vực văn hóa, gia đình, xã hội, nghệ thuật, kiến trúc... để hòa quyện thành nếp sống tâm linh tối thượng.
(Xem: 11358)
Sau khi thành đạo, Đức Phật đã phổ biến con đường giác ngộ cho nhiều người. Giác ngộvô cùng quí báu vì đó là con đường đưa đến sự giải thoát tối thượng của Niết bàn.
(Xem: 13584)
Tất cả mọi phương tiện đều để phục vụ mục tiêu chân lý của cuộc sống, như ngón tay để chỉ mặt trăng; ngón tay phương tiện để hướng đến mặt trăng chân lý.
(Xem: 11037)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm. Trong thời gian ấy, có lúc Phật giáo đưọc các vua chúa ủng hộ...
(Xem: 11431)
Ðạo Phật quan niệm mỗi cấp bực của sự sống đều mang một Thức tương ứng: cấp vi trùng vi khuẩn cũng có Thức của nó, cũng như mỗi tế bào, mỗi mô sinh vật cũng thế...
(Xem: 10895)
Giáo lý Phật giáo thiết lập trên nền tảng đau khổ của con người. Mặc dầu nhấn mạnh vào hiện hữu của sự khổ, nhưng Phật giáo không bao giờ là một giáo lý bi quan.
(Xem: 11181)
Chính thái độ hóa thần thông để giáo hóa chúng sanh đã làm nổi bật giá trị tâm lý hoằng phápĐức Phật của chúng ta đã dùng để hoằng hóa độ sanh.
(Xem: 26342)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
(Xem: 12384)
Hôm nay Đạo Phật đang chuyển đến một hướng mới, và có hàng ngàn người phương Tây đang cố gắng thực hành lời dạy của Đức Phật như một phương pháp sống.
(Xem: 14880)
Nghiên cứu Phật giáo từ quan điểm Hindu là một sự nghiên cứu của Ấn Độ giáo chứ không phải là Phật giáo. Thật sai lầm khi vay mượn để hỗ trợ quan điểm Hindu hiện đại...
(Xem: 11052)
Các Luận sư A-tì-đàm đã thấy rõ những nạn đề đặt ra cho nhận thức về quan hệ nhân quả, cho nên họ đưa ra một khung đề nghị là có năm loại kết quả khác nhau...
(Xem: 20325)
Tâm đại từ bi có hai tính cách: Tính cách cứu khổ thì thay thế chúng sinh mà chịu mọi khổ não cho họ; tính cách cho vui thì có thể bỏ hết tất cả phước lạc mà cho chúng sinh.
(Xem: 12352)
Trong lịch sử tư tưởng của Tánh Không luận, khởi đầu là sự tranh luận về điểm: có nên thừa nhận có một Bản ngã (Pdugala) hay không? Sự tranh luận này được khởi đầu...
(Xem: 11468)
Trước khi nói đến lộ trình của sự tạo nghiệp, cũng cần đề cập đến câu “nhất thiết duy tâm tạo” trong tư tưởng kinh Hoa Nghiêm của Phật giáo để thấy rõ bản chất của nghiệp...
(Xem: 10757)
Con người thoát khỏi tham lam, thù hận và si mê nhiều chừng nào thì hạnh phúc càng gia tăng chừng đó. Niết-bàn sẽ hiện hữu ngay từ bước khởi đầu và rồi thăng tiến...
(Xem: 23904)
Nguyên-thỉ hay cận-đại Phật-giáo vẫn là Phật-giáo, nghĩa là vẫn có mục-đích giải-thoát diệt khổ, vẫn tôn trọng sự sống và chân-lý, vẫn chủ trương từ-bi tế-độ.
(Xem: 11838)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch: Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp"...
(Xem: 12287)
Đức Phật tướng hảo trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất nhiều...
(Xem: 12823)
Là đóa hoa ưu tú, tinh ba của dân tộc, là bậc kiệt xuất anh tài của Phật Giáo Việt Nam, sử gia Lê Mạnh Thát đã khai quật những nguồn tài liệu vô cùng quý giá...
(Xem: 11036)
Phong trào phục hưng đạt được động lực khi một số người con của đất nước trở thành những Tăng sĩ Phật giáophục sinh lại sự quang vinh cổ thời của Tăng già.
(Xem: 38710)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 10529)
Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật...
(Xem: 12186)
Giữa thế kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ I sau công nguyên, hai thuật ngữ Đại thừa (Mahayana) và Tiểu thừa (Hinayana) xuất hiện trong Diệu pháp liên hoa kinh...
(Xem: 17696)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 25024)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 10541)
Những kẻ bị phiền não khổ đau, Phật giáo đã chỉ cho họ con đường dẫn đến hòa bình, và hạnh phúc vĩnh cữu cùng giúp họ giải quyết mọi vấn đề phiền toái của cuộc sống.
(Xem: 10746)
Giáo lý đạo Phật được xem là một nền giáo lý thực nghiệm, nhằm giải quyết những vấn đề về con người, đưa con người thoát khỏi những khổ đau trói buộc...
(Xem: 12040)
Trước tiên đề cập vấn đề trên, có lẽ cũng nên xác định lại niên đại đản sinh của thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) và niên đại nhập diệt của đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni).
(Xem: 11303)
Hỷ là một trong bốn vô lượng tâm của nhà Phật. Hỷ là hoan hỷ, vui vẻ. Lòng người Phật tử bao giờ cũng hoan hỷ, và sẵn sàng san sẻ niềm hoan hỷ đó cho mọi người.
(Xem: 11578)
Tam pháp ấn và lý Tứ đế thì tương ứng nhau: chư hành vô thườngKhổ đế; nhân sanh khổ ở nơi không biết chư pháp vô ngã, là Tập đế; Niết bàn tịch tĩnhDiệt đế...
(Xem: 14733)
Trong kinh Chuyển Pháp Luân ngay sau khi Phật giác ngộ và kinh Di Giáo ngay trước khi Phật Niết-bàn, Ngài khuyên các đệ tử của Ngài là không nên xem bói toán, xem quẻ...
(Xem: 21434)
Hoa sen (tên khoa học là Nelumbo Nucifera) là loại hoa mọc lên từ rễ củ nằm dưới lớp bùn đất ở dưới nước, hoa thường có màu trắng, hồng, có khi phơn phớt vàng, xanh...
(Xem: 9892)
Sự chết của con người là một giai đoạn trong chu trình biến thiên bất tận sinh-lão-bệnh-tử. Đầu tiên, tim ngừng đập rồi đến phổi, sau đó đến não; cuối cùng cơ thể phân hủy.
(Xem: 11259)
Trong giáo lý căn bản của đức Phật, vô minh (avijja) là điểm khởi đầu của vòng tròn mười hai nhân duyên (paticca-samuppada) đưa tới sinh tử, khổ đau...
(Xem: 27352)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 11175)
Chúng sanh bị đọa địa ngục, đó là chúng sanh tâm bị đọa lạc vào địa ngục tham, sân, si phiền não. Muốn giải phóng chúng sanh tâm, phải dùng tự tánh Địa Tạng của chính mình.
(Xem: 11829)
Nhà Phật có xác định sáu nguyên tắc để sống trong hòa hợp (Lục hòa). Vốn là để cho tăng già, nhưng nới rộng ra, đối với bất cứ một nhóm người nào cùng chung sống...
(Xem: 11004)
Chân dung toàn cảnh về Học phái Phật giáo cho chúng ta cái nhìn mà qua đó Phân kỳ Phật giáo có thể chia làm 3 thời kỳ, đó là Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Phát triển...
(Xem: 14300)
Đàn tràng chẩn tế cũng gọi là Trai đàn vì lấy sự trang nghiêm thanh tịnh làm gốc để nhất tâm hồi hướng cho cô hồn, ngạ quỷ được ân triêm công đức.
(Xem: 11472)
Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốt hay Phật xá lợi. Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant