Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Con Đường Chư Phật Đã Dạy

08 Tháng Chín 201905:43(Xem: 5226)
Con Đường Chư Phật Đã Dạy

Con Đường Chư Phật Đã Dạy

Ayya Dhammananda bhikkhuni

 Con Đường Chư Phật Đã Dạy

 

 

Trong những bài pháp ngắn gọn, súc tích nhất để hướng dẫn tu hành khi chưa có giới bổn Patimokkha, Chư Phật đã chỉ ra con đường sống đạo, tóm tắt trong ba câu ngắn gọn nhất được gọi là Ovada Katha, bài đầu tiên là:

“Dừng làm tất cả các việc ác,
Thành tựu những việc lành,
Giữ tâm ý thanh tịnh,
Đó là giáo pháp chư Phật dạy.”

“Sabba pāpassa akaranam,
Kusalassa upasampadā,
Sacitta pariyō dapanam,
Etan Buddhānasāsanam(Dhammapada verse 183)

Tất cả các việc ác ở đây có nghĩa là các nghiệp bất thiện (akusala-kamma), biết là việc bất thiện thì đừng làm (akaranam). Vậy những gì thì được gọi là ác, là nghiệp bất thiện mà chư Phật khuyên chúng ta không nên làm? Đó là: (1) sát sinh hại người hại vật, (2) là trộm cắp hay lừa đảo để chiếm đoạt tài sản, (3) tà dâm, hoang đàng tìm kiếm dục lạc một cách sai trái & gây tổn thương đau khổ trong cuộc sống gia đình; (4) nói lời dối trá gây hoang mang mất mát, (5) nói lời đâm thọc chia rẽ, (6) nói lời ác khẩu gây tổn thương tâm hồn, (7) nói lời nhảm nhí vô ích; (8) tiêu thụ những chất gây si mê, mất kiểm soát hành vi. Thêm nữa (9) ăn uống phi thờivô độbừa bãi; (10) Chấp vào tà kiến, suy nghĩ tà vạy theo tham – sân- si và cổ xúy cho những hành vi tà vạy bạo lực. Có thể kể ra nhiều hơn nữa, nhưng tự trung là thuộc về 10 nghiệp bất thiệnxã hội nào cũng lên án, bị người có trí chỉ trích, khiến người phạm vào bị chê cườitrừng phạt. Trách làm điều ác là thực hành Varitta Sīla – những giới tránh.[i]

Những việc thiện cần được thành tựu (Kusalassa upasampadā), nên làm, cần dấn thân phục vụ với bầu nhiệt huyết và học tập để trở nên thiện xảo hơn. Đó là cāritta Sīla, khía cạnh tích cực của hành động nên làm, hành động để đức lại cho mình và cho gia đình, xây dựng đóng góp & cống hiến cho xã hội. (1) bỏ trượng, bỏ kiếm, sống với lòng từ bi, thương tưởng đến lợi ích của chúng sinh. (2) bố thí, từ thiện, cúng dường, sống với bàn tay rộng mở và trái tim bao dung, biết chia sẻ, biết giúp đỡ khi được yêu cầu hay khi thấy sự khốn khó của người khác. (3) sống tri túc biết đủ, bằng lòng với những cái mình đang có; yêu thươngtrân trọng đời sống gia đình. (4) nói lên sự thật với tâm xây dựng và góp ý đúng lúc đúng thời; (5) nói lời đem lại sự đoàn kết và hòa hợp vì lợi ích chung; (6) nói lời hiền lành, ngọt ngào dễ nghe, lời đem đến sự tự tin và sức mạnh; (7) nói lời đem đến lợi ích cho mình cho người và cho cả hai bên. (8) Học tập và thực hành những phương pháp thiền & thể dục để có sức khỏe thể chấttâm hồn trong sáng, đầu óc lành mạnh. (9) Phục vụ, làm lợi ích cho gia đình, cộng đồng và đóng góp cho xã hội theo khả năng của mình. Và (10) Mở rộng tâm trí bằng việc đọc và nghe nhiều hơn, những khi có thể thì chia sẻ kiến thứctài năng của mình vì lợi ích của cộng đồngthế giới nói chung. Đây là mười thiện nghiệp mà những người con Phật nên thực hành theo để có phước đức cho đời này và cho đời mai hậu.

Tạo phước, làm phước nhưng cũng đừng tham chấp vào phước, đừng lăng xăng bận rộn quá, cứ suốt ngày “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng” mà quên đi lợi ích chính đáng cho mình, đó là tu tập tâm. Câu thứ ba chư Phật ba đời dạy chúng ta rất quan trọng “Sacitta pariyō dapanam”- hãy tự làm sạch tâm ý, gột rửa những cặn bã đã được tích lũy lâu đời lâu kiếp trong tâm thức mình. Tâm thức chúng sinh như một túi hồ lô chứa đủ các chủng tử (hạt giống) thiện – ác và bất minh thiện ác. Cái túi hồ lô này được chúng ta mang vác, ôm ấp từ kiếp này đến kiếp khác không chịu buông xuống vì cho là ‘của tôi’, ‘thuộc về tôi’, ‘là bản ngã của tôi’. Những tư tưởng xấu ác, tai hại, tham đắm si mê đương nhiên là cần được loại bỏ để tâm hồn sạch sẽ nhẹ nhàng hơn, nhưng cả những lo lắng băn khoăn vô bổ, những nghi ngờsợ hãi đã thành tập khí thói quen cũng cần được gạn lọc và làm cho lắng dịu thì đời sống mới nhẹ nhàng thanh thản được.

Hai phương pháp thiền để làm lắng dịu an tĩnh tâm và phát sinh tuệ giác là Samatha & Vipassana.[ii] Cả hai cần được thực hành để tâm ý được thanh tịnh cho đời sống thanh lương trọn vẹn hơn. Trong một pháp thoại, đức Phật dạy:

—Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Ông về vô vi và về con đường đưa đến vô vi. Hãy lắng nghe.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là vô vi? Này các Tỷ-kheo, sự đoạn tận tham, sự đoạn tận sân, sự đoạn tận si. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là vô vi.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là con đường đưa đến vô vi, chỉ và quán, này các Tỷ-kheo, đây là con đường đưa đến vô vi.” (S.iv,360)

Khi biết tu tập và cân bằng giữa các mục đích trong đời sống theo lời dạy của chư Phật, chúng ta sống an vui hạnh phúc ngay trong đời này, và tạo nền tảng lương thiện cho đời sau nếu chưa giải thoát. Khi tu tập hoàn mãn, người tu Phật được giải thoát khỏi sinh tử luân hồi và mọi khổ đau bất mãn trong đời sống.

 

Ayya Dhammananda bhikkhuni

Viết tại Tu viện Dhammadharina Hạ 2019

 

 

 



[i] Vāritta, (nt.) (fr. vṛ, on the analogy of cāritta. The BSk. is vāritra: Mvyut 84) avoidance, abstinence Th. 1, 591; Miln. 133 (cārittañ ca vārittañ ca); Vism. 11. (Page 609)

Source: Sutta: The Pali Text Society's Pali-English Dictionary

[ii] AN. Ii. 31. A Share in Clear Knowing

“These two qualities have a share in clear knowing. Which two? Tranquillity (samatha) & insight (vipassana).

“When tranquillity is developed, what purpose does it serve? The mind is developed. And when the mind is developed, what purpose does it serve? Passion is abandoned.

“When insight is developed, what purpose does it serve? Discernment is developed. And when discernment is developed, what purpose does it serve? Ignorance is abandoned.

“Defiled by passion, the mind is not released. Defiled by ignorance, discernment does not develop. Thus from the fading of passion is there awareness-release. From the fading of ignorance is there discernment-release.”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1520)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1467)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1049)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1446)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1382)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1304)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1347)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1676)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1884)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1399)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1063)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1400)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 1963)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1440)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1529)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1363)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2814)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1353)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1391)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1697)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1647)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1608)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1449)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2615)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1596)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1589)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1388)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1406)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1585)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1526)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1417)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1389)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1487)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2168)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1522)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1470)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1584)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1811)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1501)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1361)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1638)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1377)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1668)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2339)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1439)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1926)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1648)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1723)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1593)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1919)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1645)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1407)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1696)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1542)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1513)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1298)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1227)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1271)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1502)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1613)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant