Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Con Đường Chư Phật Đã Dạy

08 Tháng Chín 201905:43(Xem: 5147)
Con Đường Chư Phật Đã Dạy

Con Đường Chư Phật Đã Dạy

Ayya Dhammananda bhikkhuni

 Con Đường Chư Phật Đã Dạy

 

 

Trong những bài pháp ngắn gọn, súc tích nhất để hướng dẫn tu hành khi chưa có giới bổn Patimokkha, Chư Phật đã chỉ ra con đường sống đạo, tóm tắt trong ba câu ngắn gọn nhất được gọi là Ovada Katha, bài đầu tiên là:

“Dừng làm tất cả các việc ác,
Thành tựu những việc lành,
Giữ tâm ý thanh tịnh,
Đó là giáo pháp chư Phật dạy.”

“Sabba pāpassa akaranam,
Kusalassa upasampadā,
Sacitta pariyō dapanam,
Etan Buddhānasāsanam(Dhammapada verse 183)

Tất cả các việc ác ở đây có nghĩa là các nghiệp bất thiện (akusala-kamma), biết là việc bất thiện thì đừng làm (akaranam). Vậy những gì thì được gọi là ác, là nghiệp bất thiện mà chư Phật khuyên chúng ta không nên làm? Đó là: (1) sát sinh hại người hại vật, (2) là trộm cắp hay lừa đảo để chiếm đoạt tài sản, (3) tà dâm, hoang đàng tìm kiếm dục lạc một cách sai trái & gây tổn thương đau khổ trong cuộc sống gia đình; (4) nói lời dối trá gây hoang mang mất mát, (5) nói lời đâm thọc chia rẽ, (6) nói lời ác khẩu gây tổn thương tâm hồn, (7) nói lời nhảm nhí vô ích; (8) tiêu thụ những chất gây si mê, mất kiểm soát hành vi. Thêm nữa (9) ăn uống phi thờivô độbừa bãi; (10) Chấp vào tà kiến, suy nghĩ tà vạy theo tham – sân- si và cổ xúy cho những hành vi tà vạy bạo lực. Có thể kể ra nhiều hơn nữa, nhưng tự trung là thuộc về 10 nghiệp bất thiệnxã hội nào cũng lên án, bị người có trí chỉ trích, khiến người phạm vào bị chê cườitrừng phạt. Trách làm điều ác là thực hành Varitta Sīla – những giới tránh.[i]

Những việc thiện cần được thành tựu (Kusalassa upasampadā), nên làm, cần dấn thân phục vụ với bầu nhiệt huyết và học tập để trở nên thiện xảo hơn. Đó là cāritta Sīla, khía cạnh tích cực của hành động nên làm, hành động để đức lại cho mình và cho gia đình, xây dựng đóng góp & cống hiến cho xã hội. (1) bỏ trượng, bỏ kiếm, sống với lòng từ bi, thương tưởng đến lợi ích của chúng sinh. (2) bố thí, từ thiện, cúng dường, sống với bàn tay rộng mở và trái tim bao dung, biết chia sẻ, biết giúp đỡ khi được yêu cầu hay khi thấy sự khốn khó của người khác. (3) sống tri túc biết đủ, bằng lòng với những cái mình đang có; yêu thươngtrân trọng đời sống gia đình. (4) nói lên sự thật với tâm xây dựng và góp ý đúng lúc đúng thời; (5) nói lời đem lại sự đoàn kết và hòa hợp vì lợi ích chung; (6) nói lời hiền lành, ngọt ngào dễ nghe, lời đem đến sự tự tin và sức mạnh; (7) nói lời đem đến lợi ích cho mình cho người và cho cả hai bên. (8) Học tập và thực hành những phương pháp thiền & thể dục để có sức khỏe thể chấttâm hồn trong sáng, đầu óc lành mạnh. (9) Phục vụ, làm lợi ích cho gia đình, cộng đồng và đóng góp cho xã hội theo khả năng của mình. Và (10) Mở rộng tâm trí bằng việc đọc và nghe nhiều hơn, những khi có thể thì chia sẻ kiến thứctài năng của mình vì lợi ích của cộng đồngthế giới nói chung. Đây là mười thiện nghiệp mà những người con Phật nên thực hành theo để có phước đức cho đời này và cho đời mai hậu.

Tạo phước, làm phước nhưng cũng đừng tham chấp vào phước, đừng lăng xăng bận rộn quá, cứ suốt ngày “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng” mà quên đi lợi ích chính đáng cho mình, đó là tu tập tâm. Câu thứ ba chư Phật ba đời dạy chúng ta rất quan trọng “Sacitta pariyō dapanam”- hãy tự làm sạch tâm ý, gột rửa những cặn bã đã được tích lũy lâu đời lâu kiếp trong tâm thức mình. Tâm thức chúng sinh như một túi hồ lô chứa đủ các chủng tử (hạt giống) thiện – ác và bất minh thiện ác. Cái túi hồ lô này được chúng ta mang vác, ôm ấp từ kiếp này đến kiếp khác không chịu buông xuống vì cho là ‘của tôi’, ‘thuộc về tôi’, ‘là bản ngã của tôi’. Những tư tưởng xấu ác, tai hại, tham đắm si mê đương nhiên là cần được loại bỏ để tâm hồn sạch sẽ nhẹ nhàng hơn, nhưng cả những lo lắng băn khoăn vô bổ, những nghi ngờsợ hãi đã thành tập khí thói quen cũng cần được gạn lọc và làm cho lắng dịu thì đời sống mới nhẹ nhàng thanh thản được.

Hai phương pháp thiền để làm lắng dịu an tĩnh tâm và phát sinh tuệ giác là Samatha & Vipassana.[ii] Cả hai cần được thực hành để tâm ý được thanh tịnh cho đời sống thanh lương trọn vẹn hơn. Trong một pháp thoại, đức Phật dạy:

—Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Ông về vô vi và về con đường đưa đến vô vi. Hãy lắng nghe.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là vô vi? Này các Tỷ-kheo, sự đoạn tận tham, sự đoạn tận sân, sự đoạn tận si. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là vô vi.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là con đường đưa đến vô vi, chỉ và quán, này các Tỷ-kheo, đây là con đường đưa đến vô vi.” (S.iv,360)

Khi biết tu tập và cân bằng giữa các mục đích trong đời sống theo lời dạy của chư Phật, chúng ta sống an vui hạnh phúc ngay trong đời này, và tạo nền tảng lương thiện cho đời sau nếu chưa giải thoát. Khi tu tập hoàn mãn, người tu Phật được giải thoát khỏi sinh tử luân hồi và mọi khổ đau bất mãn trong đời sống.

 

Ayya Dhammananda bhikkhuni

Viết tại Tu viện Dhammadharina Hạ 2019

 

 

 



[i] Vāritta, (nt.) (fr. vṛ, on the analogy of cāritta. The BSk. is vāritra: Mvyut 84) avoidance, abstinence Th. 1, 591; Miln. 133 (cārittañ ca vārittañ ca); Vism. 11. (Page 609)

Source: Sutta: The Pali Text Society's Pali-English Dictionary

[ii] AN. Ii. 31. A Share in Clear Knowing

“These two qualities have a share in clear knowing. Which two? Tranquillity (samatha) & insight (vipassana).

“When tranquillity is developed, what purpose does it serve? The mind is developed. And when the mind is developed, what purpose does it serve? Passion is abandoned.

“When insight is developed, what purpose does it serve? Discernment is developed. And when discernment is developed, what purpose does it serve? Ignorance is abandoned.

“Defiled by passion, the mind is not released. Defiled by ignorance, discernment does not develop. Thus from the fading of passion is there awareness-release. From the fading of ignorance is there discernment-release.”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1405)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1226)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1279)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1441)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1067)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1173)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1188)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1591)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1553)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 2724)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1729)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1268)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1135)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1180)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1303)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1235)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1839)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1582)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1788)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1716)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2257)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1675)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2007)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 1997)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2161)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1750)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1866)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 1930)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1847)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 1998)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1832)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1765)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1846)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1784)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2054)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2159)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1865)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 1976)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1743)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1801)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2297)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2195)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 3693)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2351)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3006)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2373)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 1947)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1709)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3207)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2239)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 2930)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2593)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
(Xem: 1939)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
(Xem: 2902)
Tôi không cần giải thích tại sao bạn cần phải thực hành Pháp; tôi nghĩ bạn hiểu điều đó.
(Xem: 2540)
Thế giới chúng ta đang sinh sống ắt phải nằm trong “Hoa tạng thế giới”, tức là thế giới Hoa Nghiêm
(Xem: 3428)
Việc thẳng tiến bước trên con đường đạo lý thanh cao hầu đạt đến chân lý hạnh phúc chẳng khác nào bơi ngược dòng đời là một vấn đề...
(Xem: 3281)
Chúng ta thấy một sự vật bằng cách thấy màu sắc của nó và nhờ màu sắc ấy mà phân biệt với những sự vật có màu sắc khác
(Xem: 4106)
Tiếng Sankrit là Drama (tiếng Tạng là: cho) nghĩa là giữ lấy hoặc nâng đỡ. Vậy Pháp nâng đỡ hoặc duy trì cái gì?
(Xem: 3604)
Trong những nhà phiên dịch kinh điểnthời kỳ đầu của Phật giáo Trung Quốc, ngài Đàm-vô-sấm (曇無讖) hiện ra như một nhà phiên kinh trác việt[1].
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant