Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Niết Bàn

09 Tháng Chín 201905:49(Xem: 6017)
Niết Bàn

NIẾT BÀN


K. Sri Dhammananda
  Trần Tuấn Mẫn


Định Nghĩa Chánh Niệm

Niết-bàn là phước lạc tối thượng, một trạng thái hạnh phúc vĩnh cửu. Không thể trải nghiệm hạnh phúc của Niết-bàn bằng các giác quan mà bằng cách làm cho chúng tịch lặng.

Niết-bàn là mục đích tối hậu của Phật giáo. Vậy Niếtbàn là gì? Biết Niết-bàn thực sự là gì thì không dễ, biết những gì không phải là Niết-bàn thì dễ hơn.

Niết-bàn không phải là hư vô hay tịch diệt. Đức Phật đã từ bỏ gia đình, vương quốc và thuyết pháp suốt 45 năm - tất cả chỉ vì hư vô hay sao?

Niết-bàn không phải là thiên đường. Nhiều thế kỷ sau Đức Phật, một số tông phái Phật giáo bắt đầu giới thiệu Niết-bàn như là một thiên đường. Mục đích của các giáo phái ấy khi đưa Niết-bàn ngang bằng với một cõi trời là để thuyết phục những người “kém trí” và để lôi kéo họ vào giáo lý của tông phái mình. Nỗ lực vì Niết-bàn theo đó có nghĩa là cầu tìm một nơi tốt lành, nơi mà mọi thứ đều đẹp đẽmọi người đều hạnh phúc miên viễn. Đây có thể là một truyện kể dân gian rất thích hợp, nhưng đây không phải là Niết-bàn mà Đức Phật đã trải nghiệm và đã giới thiệu. Lúc Ngài đang tại thế, Đức Phật đã không phủ định ý niệm về thiên đường như được nêu dẫn trong các tôn giáo Ấn Độ sơ thời. Nhưng Đức Phật biết rằng thiên đường này vẫn thuộc Luân hồigiải thoát tối hậu thì vượt khỏi các cõi trời.

Nếu Niết-bàn không phải là một nơi chốn thì Niếtbàn ở đâu? Niết-bàn hiện hữu giống như lửa hiện hữu. Tuy nhiên, không có chỗ chứa cho lửa hay cho Niếtbàn. Nhưng khi bạn chà xát những mảnh gỗ với nhau thì sự ma xát và hơi nóng là những điều kiện thuận tiện cho lửa khởi sinh. Cũng vậy, khi bản chất trong tâm con người trở nên thế nào để thoát khỏi mọi ô nhiễm thì hạnh phúc Niết-bàn sẽ xuất hiện.

Bạn có thể trải nghiệm Niết-bàn. Cho đến khi bạn trải nghiệm trạng thái tối thượng của hạnh lạc Niếtbàn, bạn chỉ có thể suy đoán Niết-bàn thực sự là gì. Đối với những ai thiên trọng lý thuyết thì kinh điển giúp họ đôi phần. Kinh điển gợi ý rằng Niết-bàn là một trạng thái hạnh phúc tinh thuần.

Tự thân Niết-bàn thì hoàn toàn không thể giải thíchhoàn toàn không thể định nghĩa. Như bóng tối chỉ có thể được giải thích bằng sự đối nghịch của nó là ánh sáng và như sự đứng im chỉ có thể được giải thích bằng sự đối nghịch của nó là chuyển động, Niết-bàn cũng vậy, như là một trạng thái được xem là sự diệt trừ mọi khổ đau, có thể được giải thích bằng sự đối nghịch của nó là sự khổ đau dai dẳng trong Luân hồi. Như bóng tối hiển lộ ở nơi nào không có ánh sáng, Cũng vậy, Niết-bàn hiển lộ ở nơi nào không có khổ đau, vô thườngbất tịnh.

Một người gãi vào những chỗ đau của mình có thể cảm nghiệm một sự khuây khỏa tạm thời. Sự khuây khỏa tạm thời này sẽ tích lũy những vết thương khiến cho bệnh nặng thêm. Niềm vui của việc được chữa lành bệnh có thể khó được so sánh với sự khuây khỏa thoáng qua do gãi. Cũng vậy, thỏa mãn sự ham muốn dục lạc chỉ mang lại sự toại ý hay hạnh phúc tạm thời kéo dài một khoảng thời gian trong Luân hồi. Chữa lành căn bệnh Luân hồi là Niết-bàn. Niết-bàn là sự chấm dứt tham ái gây mọi khổ đau sinh, già, bệnh, chết, sầu, bi, thất vọng. Niềm vui của sự chữa lành thuộc Niết-bàn có thể khó so sánh với những thú vui thuộc Luân hồi có được bằng sự thỏa mãn dục vọng.

Suy đoán về Niết-bàn là gì thì nguy hiểm; tốt hơn là nên biết làm sao để chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đạt Niết-bàn, làm sao để đạt sự an bình nội tại và sự sáng suốt trong kiến giải đưa đến Niết-bàn. Đức Phật khuyên: Hãy đưa Giáo pháp của Ngài vào thực hành. Hãy rũ bỏ mọi ô nhiễm vốn là gốc rễ của tham, sân và si. Hãy tẩy sạch mình khỏi mọi ham muốnthực hiện sự vô ngã tuyệt đối. Hãy sống một cuộc sống đạo đức chân chính và không ngừng thực hành thiền định. Bằng sự tích cực nỗ lực, hãy giải thoát mình khỏi mọi ích kỷhão huyền. Thế rồi, Niết-bàn được đạt và được trải nghiệm.

Niết-bàn và Luân hồi

Long Thọ, một học giả Phật học Đại thừa nổi tiếng, bảo rằng Luân hồi và Niết-bàn là một. Sự diễn dịch này có thể dễ dàng khiến những người khác hiểu nhầm. Tuy nhiên, bảo rằng khái niệm Luân hồi và Niết-bàn như nhau là bảo rằng không có sự khác biệt trong cái không của các sự vật hữu vitrạng thái vô vi của Niếtbàn. Phù hợp với Tam tạng Pali, Luân hồi được miêu tả là sự tương tục không dứt của năm uẩn, bốn đạimười hai xứ, trong khi Niết-bàn được miêu tả là sự đoạn diệt của các nguồn gốc liên hệ về vật lýtâm lý ấy.

Tuy nhiên, cũng được thừa nhận rằng những người đạt hạnh phúc Niết-bàn có thể trải nghiệm hạnh phúc ấy trong lúc họ hiện hữu trong Luân hồi. Trong mọi trường hợp, sau khi họ chết đi, sự nối kết với những thành phần kia sẽ bị loại trừ, vì lý do đơn giản rằng Niết-bàn là vô vi, vô liên kết, vô tương liên. Nếu có gì nữa sau Niết-bàn thì đó phải là “Chân lý Tuyệt đối”.

Bạn phải tập tành để được tách ra khỏi việc đời. Nếu còn có sự ràng buộc với ai hay vật gì hoặc còn có sự yêu ghét đối với người nào hay vật nào thì bạn sẽ không bao giờ đạt Niết-bàn, vì Niết-bàn vượt khỏi mọi sự đối nghịch, ràng buộc, và sân hận, ưa thíchchán ghét.

Khi trạng thái tối hậu được đạt, bạn sẽ hoàn toàn hiểu cuộc sống trần gian này mà giờ đây bạn đang khao khát. Cuộc đời này sẽ tăng trưởng để trở thành một đối tượng cho sự ham muốn của bạn. Bạn sẽ nhận ra sầu khổ, vô thườngvô ngã của tất cả những gì sống và không sống. Bằng cách chỉ phụ thuộc vào các bậc thầy hay kinh điển mà không có sự nỗ lực đúng đắn của chính bạn thì khó thể nghiệm Niết-bàn. Những mơ tưởng của bạn sẽ tan biến. Không có lâu đài nào sẽ được xây giữa không trung. Bão tố sẽ ngưng. Những đấu tranh của cuộc đời sẽ chấm dứt. Những quá trình vận hành của tự nhiên sẽ không còn. Tất cả những gì của bạn, lo lắng, khổ đau, trách nhiệm, rối ren, gánh nặng, bệnh tật về vật lýtâm lýcảm xúc sẽ tan biến sau khi bạn đạt được trạng thái hạnh phúc tối thượng của Niết-bàn.

Bảo rằng Niết-bàn là không gì cả chỉ đơn giản là vì người ta không thể cảm nhận nó bằng năm giác quan thì cũng phi lý như bảo rằng ánh sáng không có vì người mù không trông thấy nó.

Niết-bàn có thể được đạt trong đời sống hiện tại này. Phật giáo không bảo rằng mục đích tối hậu chỉ có thể được đạt trong đời sống bên kia. Khi Niết-bàn được chứng nghiệm trong đời sống này mà vẫn còn thân thể thì được gọi là Hữu dư Niết-bàn. Khi một vị A-la-hán đạt Bát-niết-bàn sau khi thân thể tan hủy, không còn tàn dư nào của sự hiện hữu vật lý thì đó là Vô dư Niết-bàn.

Ghi chú:
Xuất xứ: Trích từ chương V, Nibban, trang 102, tác phẩm Anh ngữ What Buddhists Believe của K.Sri Dhammananda, Nxb Buddhist Cultura Center, in lần thứ 6, 1998, Kuala Lumpur, Malaysia. Tác giả: Đại sư K.Sri Dhammananda (1929-2006), người Sri Lanka, Chủ tịch Danh dự Hội Ái hữu Phật tử Thế giới (WFB), tinh thông kinh điển Phạn ngữ, Pali ngữtriết học Ân Độ, tác giả của khoảng 60 tác phẩm viết về Phật giáo.

Trần Tuấn Mẫn | Văn Hóa Phật Giáo Số 327 ngày 1-7-2019
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13057)
Theo Luận Ðại thừa khởi tín, Nhứt Tâm có hai tướng: (1) tướng Chân như, chỉ riêng về phần thể tánh chơn tâm thanh tịnh; dụ như "tánh trong sạch" của nước...
(Xem: 27021)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 32856)
Acarya Nagarjuna (A Xà Lê Long Thọ) giữ một địa vị hầu như vô song trong hàng các bậc Thánh Phật giáo trình bày xiển dương lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni cho lợi lạc của thế giới.
(Xem: 31656)
Bố thí là hạnh đầu tiên trong sáu hạnh của Bồ Tát. Nguyên âm chữ Phạn là Dàna có nghĩa là sự cho, dịch sang tiếng Hán Việt là Bố thí.
(Xem: 32581)
Bát Chánh Đạo rất dễ nhớ, nhưng ý nghĩa của chúng thâm sâu và đòi hỏi một sự hiểu biết về nhiều lãnh vực liên quan trong giáo lý của Đức Phật.
(Xem: 13022)
Có nhiều loại giác ngộ, nhưng bản chất của giác ngộ thì chỉ có một, đó là phá vỡ bức tường ngăn ngại của vô minh để ánh sáng của tự tánh, Phật tánh được dịp bùng lên.
(Xem: 12142)
Lời dạy của đức Phậtpháp môn phương tiện, chứ không phải là chân lý. Vì vậy, học Phật là học pháp môn để tu tập, để chuyển hóa tâm thức, lời nói...
(Xem: 17497)
Không gian nhận thức bị giới hạn, vì thế nó hữu hạn. Khi bạn ngồi trong lớp học, không gian nhận thức bị bao bọc bởi các bức vách, nền nhà và trần nhà.
(Xem: 18724)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 12573)
Trong kinh Phật có dạy: Chúng ta phải cố gắng tu không thể chần chờ, bởi vì đâu có ai bảo đảm mình sống đến tám mươi tuổi mới chết. Trẻ có cái chết của trẻ...
(Xem: 11776)
Ý thứcvọng tưởng, là những mảnh vụn của tâm thể, là những áng mây đen che mờ mặt trăng tuệ giác, là những lượn sóng dấy động trên mặt biển chân tâm thanh tịnh...
(Xem: 13127)
Đức Phật dạy có năm sự khéo léo trong giao tiếp đem đến nhiều kết quả tốt đẹp. Theo ngài Xá Lợi Phất, không tuân theo năm cách xử sự này sẽ đem đến những hậu quả...
(Xem: 12208)
Trong đời sống chúng ta ai cũng có bản năng tự nhiên mong được hạnh phúc và thoát được đau khổ. Mong cầu được sung sướng là điều chính yếu của tất cả mọi người.
(Xem: 12491)
Khi ta cố chấp vào một sự việc thì tế bào thần kinh không có sự ráp nối dồi dào, khiến ta không nhận biết được những dữ kiện khác của sự thật. Ta trở thành người mù sờ voi...
(Xem: 11633)
Bằng Đạo Pháp, Phật mở ra cho ta một thế giới êm ả, an bìnhhạnh phúc, thay vì bước vào ta lại bước ra. Cái cánh cửa của thế giới đó ta không thấy...
(Xem: 11987)
Tôn chỉ Phật giáochí hướng cao siêu của một chân lý. Chí hướng của Phật là "Tự Giác Giác Tha", có nghĩa là tự mình giác ngộ, thức tỉnh trong giấc mộng vô minh...
(Xem: 10605)
Chúng ta tu Phật, nên biết nhân quả là một giáo lý căn bản của đạo Phật, không thể nào hiểu lơ là hay sơ sài, mà phải hiểu cho tường tận mới khỏi những ngờ vực.
(Xem: 10930)
Bởi con người mang sẵn tính tham lam, thói hèn nhát, nên khi muốn thỏa mãn sự mong cầu, muốn được bình an khi nguy hiểm, đều nảy sanh mê tín dị đoan.
(Xem: 28323)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 11174)
Ðạo Phật đã thấm sâu, đâm chồi, mọc rễ và lớn mạnh qua các lãnh vực văn hóa, gia đình, xã hội, nghệ thuật, kiến trúc... để hòa quyện thành nếp sống tâm linh tối thượng.
(Xem: 11366)
Sau khi thành đạo, Đức Phật đã phổ biến con đường giác ngộ cho nhiều người. Giác ngộvô cùng quí báu vì đó là con đường đưa đến sự giải thoát tối thượng của Niết bàn.
(Xem: 13598)
Tất cả mọi phương tiện đều để phục vụ mục tiêu chân lý của cuộc sống, như ngón tay để chỉ mặt trăng; ngón tay phương tiện để hướng đến mặt trăng chân lý.
(Xem: 11040)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm. Trong thời gian ấy, có lúc Phật giáo đưọc các vua chúa ủng hộ...
(Xem: 11432)
Ðạo Phật quan niệm mỗi cấp bực của sự sống đều mang một Thức tương ứng: cấp vi trùng vi khuẩn cũng có Thức của nó, cũng như mỗi tế bào, mỗi mô sinh vật cũng thế...
(Xem: 10900)
Giáo lý Phật giáo thiết lập trên nền tảng đau khổ của con người. Mặc dầu nhấn mạnh vào hiện hữu của sự khổ, nhưng Phật giáo không bao giờ là một giáo lý bi quan.
(Xem: 11185)
Chính thái độ hóa thần thông để giáo hóa chúng sanh đã làm nổi bật giá trị tâm lý hoằng phápĐức Phật của chúng ta đã dùng để hoằng hóa độ sanh.
(Xem: 26349)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
(Xem: 12387)
Hôm nay Đạo Phật đang chuyển đến một hướng mới, và có hàng ngàn người phương Tây đang cố gắng thực hành lời dạy của Đức Phật như một phương pháp sống.
(Xem: 14885)
Nghiên cứu Phật giáo từ quan điểm Hindu là một sự nghiên cứu của Ấn Độ giáo chứ không phải là Phật giáo. Thật sai lầm khi vay mượn để hỗ trợ quan điểm Hindu hiện đại...
(Xem: 11062)
Các Luận sư A-tì-đàm đã thấy rõ những nạn đề đặt ra cho nhận thức về quan hệ nhân quả, cho nên họ đưa ra một khung đề nghị là có năm loại kết quả khác nhau...
(Xem: 20330)
Tâm đại từ bi có hai tính cách: Tính cách cứu khổ thì thay thế chúng sinh mà chịu mọi khổ não cho họ; tính cách cho vui thì có thể bỏ hết tất cả phước lạc mà cho chúng sinh.
(Xem: 12357)
Trong lịch sử tư tưởng của Tánh Không luận, khởi đầu là sự tranh luận về điểm: có nên thừa nhận có một Bản ngã (Pdugala) hay không? Sự tranh luận này được khởi đầu...
(Xem: 11474)
Trước khi nói đến lộ trình của sự tạo nghiệp, cũng cần đề cập đến câu “nhất thiết duy tâm tạo” trong tư tưởng kinh Hoa Nghiêm của Phật giáo để thấy rõ bản chất của nghiệp...
(Xem: 10764)
Con người thoát khỏi tham lam, thù hận và si mê nhiều chừng nào thì hạnh phúc càng gia tăng chừng đó. Niết-bàn sẽ hiện hữu ngay từ bước khởi đầu và rồi thăng tiến...
(Xem: 23910)
Nguyên-thỉ hay cận-đại Phật-giáo vẫn là Phật-giáo, nghĩa là vẫn có mục-đích giải-thoát diệt khổ, vẫn tôn trọng sự sống và chân-lý, vẫn chủ trương từ-bi tế-độ.
(Xem: 11851)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch: Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp"...
(Xem: 12302)
Đức Phật tướng hảo trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất nhiều...
(Xem: 12832)
Là đóa hoa ưu tú, tinh ba của dân tộc, là bậc kiệt xuất anh tài của Phật Giáo Việt Nam, sử gia Lê Mạnh Thát đã khai quật những nguồn tài liệu vô cùng quý giá...
(Xem: 11046)
Phong trào phục hưng đạt được động lực khi một số người con của đất nước trở thành những Tăng sĩ Phật giáophục sinh lại sự quang vinh cổ thời của Tăng già.
(Xem: 38727)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 10535)
Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật...
(Xem: 12193)
Giữa thế kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ I sau công nguyên, hai thuật ngữ Đại thừa (Mahayana) và Tiểu thừa (Hinayana) xuất hiện trong Diệu pháp liên hoa kinh...
(Xem: 17704)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 25044)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 10552)
Những kẻ bị phiền não khổ đau, Phật giáo đã chỉ cho họ con đường dẫn đến hòa bình, và hạnh phúc vĩnh cữu cùng giúp họ giải quyết mọi vấn đề phiền toái của cuộc sống.
(Xem: 10754)
Giáo lý đạo Phật được xem là một nền giáo lý thực nghiệm, nhằm giải quyết những vấn đề về con người, đưa con người thoát khỏi những khổ đau trói buộc...
(Xem: 12049)
Trước tiên đề cập vấn đề trên, có lẽ cũng nên xác định lại niên đại đản sinh của thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) và niên đại nhập diệt của đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni).
(Xem: 11308)
Hỷ là một trong bốn vô lượng tâm của nhà Phật. Hỷ là hoan hỷ, vui vẻ. Lòng người Phật tử bao giờ cũng hoan hỷ, và sẵn sàng san sẻ niềm hoan hỷ đó cho mọi người.
(Xem: 11591)
Tam pháp ấn và lý Tứ đế thì tương ứng nhau: chư hành vô thườngKhổ đế; nhân sanh khổ ở nơi không biết chư pháp vô ngã, là Tập đế; Niết bàn tịch tĩnhDiệt đế...
(Xem: 14739)
Trong kinh Chuyển Pháp Luân ngay sau khi Phật giác ngộ và kinh Di Giáo ngay trước khi Phật Niết-bàn, Ngài khuyên các đệ tử của Ngài là không nên xem bói toán, xem quẻ...
(Xem: 21440)
Hoa sen (tên khoa học là Nelumbo Nucifera) là loại hoa mọc lên từ rễ củ nằm dưới lớp bùn đất ở dưới nước, hoa thường có màu trắng, hồng, có khi phơn phớt vàng, xanh...
(Xem: 9900)
Sự chết của con người là một giai đoạn trong chu trình biến thiên bất tận sinh-lão-bệnh-tử. Đầu tiên, tim ngừng đập rồi đến phổi, sau đó đến não; cuối cùng cơ thể phân hủy.
(Xem: 11263)
Trong giáo lý căn bản của đức Phật, vô minh (avijja) là điểm khởi đầu của vòng tròn mười hai nhân duyên (paticca-samuppada) đưa tới sinh tử, khổ đau...
(Xem: 27364)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 11179)
Chúng sanh bị đọa địa ngục, đó là chúng sanh tâm bị đọa lạc vào địa ngục tham, sân, si phiền não. Muốn giải phóng chúng sanh tâm, phải dùng tự tánh Địa Tạng của chính mình.
(Xem: 11840)
Nhà Phật có xác định sáu nguyên tắc để sống trong hòa hợp (Lục hòa). Vốn là để cho tăng già, nhưng nới rộng ra, đối với bất cứ một nhóm người nào cùng chung sống...
(Xem: 11008)
Chân dung toàn cảnh về Học phái Phật giáo cho chúng ta cái nhìn mà qua đó Phân kỳ Phật giáo có thể chia làm 3 thời kỳ, đó là Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Phát triển...
(Xem: 14309)
Đàn tràng chẩn tế cũng gọi là Trai đàn vì lấy sự trang nghiêm thanh tịnh làm gốc để nhất tâm hồi hướng cho cô hồn, ngạ quỷ được ân triêm công đức.
(Xem: 11476)
Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốt hay Phật xá lợi. Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng...
(Xem: 12642)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant