Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Giáo Lý Năm Uẩn

18 Tháng Chín 201905:39(Xem: 6254)
Giáo Lý Năm Uẩn

GIÁO LÝ NĂM UẨN

Thích Trung Định


Làm Thế Nào

Uẩn, thuật ngữ Pāli là khandha (Skt: skandha) thường được dịch sang tiếng Anh là ‘aggregates’ uẩn. Trước thời Phật, thuật ngữ khandha có ý nghĩa hết sức bình thường, đó là một đống, một bó, một cụm, một khối, một đống thô trọng (ghana)[1] có vẻ rắn chắc bên ngoài, được phân thành năm ‘nhóm’ (rāśi, tụ, đống, hay bó, một thứ kết tụ các mảnh vụn cộng thêm danh hiệu, một khối được hình thành từ năm phần tử khác biệt nhau).  Nó cũng được dịch là Ấm với ý nghĩa che đậy, uẩn với nghĩa nghĩa tập hợp, và cũng dịch là trọng đởm với ý nghĩa gắnh nặng. Năm uẩn được gọi như vậy vì chúng là sự cấu thành của năm thành phần tạo nên một tập hợp được gọi là con người đầy đủ hai thành phần danh và sắc (nama-rupa). Trong Kinh Tương Ưng Bộ (Saṃyutta nikāya) năm uẩn định nghĩa như sau: ‘Bất cứ loại hình thức đó là, cho dù trong quá khứ, tương lai, hay hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, hạ liệt hay cao thượng, xa hay gần: điều này được gọi là sắc uẩn; bất cứ điều gì có cảm giác là, ‘quá khứ, tương lai, hay hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, hạ liệt hay cao thượng, xa hay gần, được gọi là thọ uẩn; và tiếp tục định nghĩa như vậy cho những uẩn kế tiếp.’[2]

Theo Tỳ kheo Bodhi, việc quán sát về năm uẩnchủ đề chính trong thiên Tương ưng về uẩn (Khandhasamyutta), nó hàm chứa một nội dung vô cùng quan trọng trong lời dạy của Đức Phật đối với ít nhất bốn lý do. Thứ nhất, ngũ uẩn là sự tham khảo cuối cùng của Chân lý cao nhất đầu tiên, Khổ thánh đế, và vì cả Bốn chân lý đều xoay quanh đau khổ, nên sự hiểu biết về năm uẩn là điều cần thiết để hiểu một cách trọn vẹn về Tứ Diệu ĐếThứ hai, năm uẩn là đối tượng để chấp thủ gọi là ngũ thủ uẩn, như vậy nó liên quan trực tiếp đến nguyên nhân gây đau khổ trong tương lai, đó là tham áichấp thủ. Thứ ba, chấp thủ vào ngũ uẩn cần phải được loại bỏ để đạt được giải thoát. Và thứ tư, các loại trí tuệ cần thiết để loại bỏ chấp thủ về ngũ uẩn đó là minh sát tuệ, thấy biết chính xác rõ ràng về bản chất thực sự của các uẩn.[3] Do vậy, liễu tri về năm uẩn là một nội dung vô cùng quan trọng trong tiến trình tu tập, thành tựu tuệ giác.

1. Nội dung năm uẩn: Năm uẩn bao gồm: sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Sắc là sắc chất, bao gồm Bốn đại chủng và sắc do bốn đại chủng tạo thành; hay nói cách khác Sắc uẩn bao gồm sắc năng tạo (đại chủng ‘bhùta’) và sắc sở tạo (upàdàya).Thọ, là cảm thọ. Cảm thọ khổ, cảm thọ vui và cảm thọ không khổ không vui. Tưởng là sự nhận thức hay sự cảm nhận. Cảm nhận màu xanh, vàng, đỏ, trắng. Hành là sự tạo tác, sự tích tụ. “Này các tỷ kheo, vì chúng tạo tác ra các pháp hữu vi, nên chúng được gọi là các hành.”[4]  Thức là sự nhận biết. Nó nhận biết chua, nó nhận biết đắng, nó nhận biết hăng, nhận biết nó ngọt, nó nhận biết sắc, nó nhận biết nhẹ, nó nhận biết mặn, nó nhận biết nhạt nhẽo. ‘Vì nó nhận biết, này các Tỷ kheo, do đó nó được gọi là ý thức.”[5]

2.Thứ tự và mối liên hệ giửa các uẩn: Về trình tự của các uẩn: Câu hỏi được đặt ra là tại sao thứ tự đặc biệt này của các uẩn đã được áp dụng: Tại sao sắc uẩn được đặt đầu tiên; thọ thứ hai, tưởng thứ ba, hành thứ tư, và thứ năm là thức?

Trong việc giải thích thứ tự đặc biệt này, ngài Phật Âm (Buddhaghosa) cho rằng, rất có lý để sắp xếp như vậy. Đó là tùy theo mức độ nhận diện dễ hay khó để sắp xếp. Vì sắc dễ nhận diện nhất nên sắp xếp uẩn này lên đầu và thức là đối tượng khó nhận diện nên sắp xếp cuối. Ngài cho rằng, con người tin rằng có một linh hồn thường tại trong năm uẩn ấy, do đó họ thất bại trong việc nhận diện như thật về chúng. Đức Phật dạy việc sắp xếp sắc uẩn đầu tiên là vì sắc cơ sở của căn và trần. Sau đó Ngài dạy về Thọ uẩn (vedanā) để cảm thọ sự mong muốn và không mong muốn; niềm vui hay nỗi buồn. Sau đó, ngài đã dạy về Tưởng uẩn (Sanna) để hiểu được các khía cạnh trong lĩnh vực cảm giác vì ‘ta cảm nhận những gì người ta cảm thấy’ (M. III, 293) và sau đó là Hành uẩn (saṅkhāras) được liệt kê đó là những tâm hành được kết hợp từ Tưởng. Và cuối cùng đức Phật dạy thức uẩn bởi vì nó cung cấp sự hỗ trợ và chi phối cảm thọ, tưởng và hành uẩn.

Học giả Yasomitra chấp nhận lời giải thích của ngài Phật Âm đó là dựa trên sự hiển nhiênvi tế của các uẩn khác nhau, và ông tiếp tục đưa ra ba lý do khác nữa để lý giải về thứ tự của các uẩn. Thứ nhất, theo ông, thứ tự đặc biệt này nhằm giải thích một quá trình trong đó nói lên tâm trí của con người là ô uế. Nam giới và phụ nữ bị thu hút nhau bởi vì hình thể vật chất của họ được cấu tạo bằng sắc chất (rūpa). Rồi họ trở nên háo hức tìm được khoái lạc, đó là cảm giác (vedanā), từ nhau. Sự háo hức này là do sự kỳ diệu của tưởng (sañjñā) và sự kỳ quái này là do dục vọng (klesa) là hiệp lực (saṅkhāras) mà theo đó tâm (vijñāna) bị ô uế. Ngài minh hoạ thứ tự này bằng cách so sánh vấn đề với một con tàu (bhājana), cảm giácthức ăn (bhojana), nhận thức là gia vị (vyañjana), hành uẩn như một người nấu ăn (paktṛ) và tâm trí (thức) là người ăn thịt.[6]

Tóm lại, chúng ta đã thảo luận về năm uẩn (khandhas), riêng biệt, sự phân tích về năm uẩn riêng biệt như vậy để thấy rõ về tính cách đặc thù của mỗi uẩn. Năm uẩn, thực tế không hoạt động độc lập, theo cách chúng ta mô tả chúng. Mà chúng hoạt động cùng nhau, phụ thuộc lẫn nhau và không thể nào tách rời chúng ra được.  Năm uẩn là một chỉnh thể thống nhất, bất khả phân ly như được mô tả một cách hợp lý trong kinh Na Tiên Tỷ kheo (Milindapañha)[7], nơi mà ngài Na tiên (Nāga Sena) trả lời câu hỏi của vua Milinda và sử dụng hình ảnh của một tô súp. Năm uẩn được ví như một tô súp, chúng ta thể tách các thành phần của súp, tương tự như vậy, ngũ uẩn tạo thành một con người hoàn hảo, chúng cấu thành nhân cách của con người, không thể tách rời nhau.[8]

Theo giải thích của Tương Ưng Bộ Kinh (Saṃyutta nikāya) bốn uẩn đầu, đó là sắc, thọ, tưởng, hành là nhà của Thức trú ngụ. Thức bị lòng tham đối với sắc, thọ, tưởng, hành trói buộc. (S. III. 9). Và thức uẩn có thể chỉ tồn tại trong mối quan hệ với bốn uẩn khác, nó không thể tồn tại độc lập với chúng.

Các trạng thái thể chất và tinh thần-tâm linh được xem như là một sự tương tác liên tục; Chúng không phải là hai phạm trù hoàn toàn riêng biệt. Như Winston King nói: ‘Trong bất kỳ thời điểm nào của kinh nghiệm, thân-tâm thể hiện sự hiệp nhất hữu cơ thân mật. Mặc dù Phật giáo nhận ra một sự phân cực giữa các thành phần tinh thầnthể chất của chúng sinh, nhưng nó không bao giờ phân chia mà ngược lại nhấn mạnh đến mối quan hệ gần gũi của tất cả các trạng thái tinh thần và thể xác.” Nói cách khác, sắc và tâm không phải một nhưng cũng không phải khác. Bát nhã tâm kinh nói, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng điều như vậy. Đó là giáo lý tương tức tương nhập của Phật giáo.

3. Những vấn đáp về năm uẩn

Có những vấn đáp về năm uẩn chẳng hạn như nguồn góc của sự chấp thủ năm uẩn, nguyên nhânđiều kiện của năm uẩn, về thân kiến, vị ngọt, sự nguy hiển và xuất ly đối với năm uẩn.

Đối với nguồn góc của sự chấp thủ năm uẩn, đức Phật giải thích do bắt nguồn từ tham dục nên dẫn đến sự chấp thủ về năm uẩn. “Có năm thủ uẩn này: tức là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn. Này Tỷ-kheo, năm thủ uẩn này lấy dục làm căn bản.”

Về sự khác biệt giữa uẩn và thủ uẩn được phân định như sau. Trước hết, uẩn được nói lên không phân biệt. Thủ uẩn là nói để phân biệt ra những uẩn bị chấp thủ và còn lậu hoặc. Đức Phật dạy: “Này các tỷ kheo, ta sẽ dạy các ông năm uẩn và năm thủ uẩn. Hãy nghe kỹ... Này các tỷ kheo, gì là năm uẩn? Phàm có sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại... xa gần, đó là sắc uẩn. Phàm có thọ gì... phàm có tưởng gì... thức gì... xa hay gần, đó là thức uẩn. Gì là năm thủ uẩn? Phàm sắc nào, ... xa hay gần, mà có lậu hoặc, bị chấp thủ, đây là sắc thủ uẩn. Phàm thọ nào, tưởng nào, hành thức nào... xa hay gần, mà còn lậu hoặc, bị chấp thủ, đấy gọi là thức thủ uẩn. Đây, này các tỷ kheo, gọi là năm uẩn bị chấp thủ, hay năm thủ uẩn.”

Về nguyên nhânđiều kiện của năm uẩn, đức Phật giải thích: “Do nhân bốn đại, này Tỷ-kheo, do duyên bốn đại, được gọi là sắc uẩn. Do nhân xúc, do duyên xúc, được gọi là thọ uẩn. Do nhân xúc, do duyên xúc, được gọi là tưởng uẩn. Do nhân xúc, do duyên xúc, được gọi là hành uẩn. Do nhân danh sắc, do duyên danh sắc, được gọi là thức uẩn.

Đối với sự chấp thủ về thân kiến, đức Phật giải thích: “Ở đây, này Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu không thấy rõ bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh; không thấy rõ các bậc Chân nhân, không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân nhân, quán sắc như là tự ngã, hay quán tự ngã như là có sắc, hay quán sắc ở trong tự ngã, hay quán tự ngã ở trong sắc... thọ... tưởng.. hành... quán thức như là tự ngã, hay quán tự ngã như là có thức, hay quán thức ở trong tự ngã, hay quán tự ngã ở trong thức. Như vậy, này Tỷ-kheo, là có thân kiến. Và khi vị ấy không quán sắc như là tự ngã, hay không quán tự ngã như là có sắc, thọ, tưởng, hành thức đều như vậy tức vị ấy không chấp thủ về thân kiến.

Cái gì là vị ngọt, sự nguy hiển và xuất ly đối với năm uẩn? Đức Phật giải thích, “Này Tỷ-kheo, do duyên sắc, khởi lên lạc hỷ gì, đó là vị ngọt của sắc. Sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại của sắc, đó là sự nguy hiểm của sắc. Sự nhiếp phục dục và tham, sự đoạn tận dục và tham đối với sắc, đó là sự xuất ly của sắc. Do duyên thọ... Do duyên tưởng... Do duyên các hành... Do duyên thức khởi lên lạc hỷ gì, đó là vị ngọt của thức. Sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại của thức, đó là sự nguy hiểm của thức. Sự nhiếp phục dục và tham, sự đoạn tận dục và tham đối với thức, đó là sự xuất ly của thức.

4. Năm vị (vô ngã tưởng)

Đức Phật dạy, Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu sắc là ngã, thời sắc không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các sắc như sau: “Mong rằng sắc của tôi là như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!” Và này các Tỷ-kheo, vì sắc là vô ngã. Do vậy sắc đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các sắc: “Mong rằng sắc của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này! Tương tự như vậy với thọ, tưởng, hành và thức.”

Do vậy đối với Tất cả sắc, thọ, tưởng, hành và thức cần phải như thật quán với chánh trí tuệ như sau: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi.”

Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, bậc Đa văn Thánh đệ tử yếm ly đối với sắc, yếm ly đối với thọ, yếm ly đối với tưởng, yếm y đối với các hành, yếm ly đối với thức. Do yếm ly, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên: “Ta đã được giải thoát". Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa.”

5. Vô thường, khổ, vô ngã

Đức Phật dạy, “Năm uẩn là vô thường. Những gì vô thường là khổ. Cái gì khổ là vô ngã. Do đó cần liễu tri rằng: cái này không phải là tôi, không phải của tôi và không phải tự ngã của tôi” [18]

6. Bọt nước

Tương ưng bộ kinh Tập III - Thiên Uẩn, phẩm Hoa đức Phật dạy rằng, “Sắc ví với đống bọt, Thọ ví bong bóng nước, Tưởng ví ráng mặt trời, Hành ví với cây chuối, Thức ví với ảo thuật.” (Quán sắc như tụ mạc, thọ như thủy thượng bào, tưởng như dương thời diệm, chư hành như ba tiêu, quán thức vô ngã.)

Sao gọi là sắc ví với đống bọt? Như một cục bọt không có lõi cố định (sara), vì vậy hình tướng của cục bọt tơi xốp, trống rổng và chúng không tồn tại lâu dài. Cục bọt là sự kết hợp từ nhiều bọt nước, do đó chúng có nhiều khe hở và nơi trú ngụ của nhiều loài sinh vật, chúng rất dễ tan vở, và hoại diệt một cách nhanh chống.

Đức Phật giải thích: “Ví như, này các Tỷ-kheo, sông Hằng này chảy mang theo đống bọt nước lớn. Có người có mắt nhìn đống bọt nước ấy, chuyên chú, như lý quán sát. Do nhìn chuyên chú, như lý quán sát nó, đống bọt nước ấy hiện rõ ra là trống không, hiện rõ ra là rỗng không, hiện rõ ra là không có lõi cứng. Làm sao, này các Tỷ-kheo, lại có lõi cứng trong đống bọt nước được? Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, phàm có sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại, hoặc thô hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa hay gần; vị Tỷ-kheo thấy sắc, chuyên chú, như lý quán sát sắc. Do vị Tỷ-kheo nhìn chuyên chú, như lý quán sát sắc, sắc ấy hiện rõ ra là trống không, hiện rõ ra là rỗng không, hiện rõ ra là không có lõi cứng. Làm sao, này các Tỷ-kheo, lại có lõi cứng trong sắc được?”

Thế nào gọi là cảm thọbong bóng nước? Một bong bóng nước (bubbula) là vô cùng yếu ớt và không thể nắm bắt được, nó sẽ dễ vỡ ra ngay sau khi mới thành hình. Do đó, cảm thọ thoáng hiện lên khi tiếp xúc với đối tượng, chúng không tồn tại cố định, lâu dài. Cũng như một bong bong nước phát sinh và chấm dứt trong một giọt nước là rất nhanh. Một cảm giác khởi lên bằng 100.000 kotis, Tức cảm xúc phát sinh và chấm dứt trong thời gian của một gảy móng tay (một koti = 10 triệu). Như một bong bóng phát sinh trong sự phụ thuộc vào các điều kiện, đó là sự phụ thuộc vào căn, trần và xúc, khi xúc chạm một đối tượng cảm giác sinh khởi.

Sao gọi Tưởng ví ráng mặt trời? Tưởng uẩn là giống như ráng nắng trên mặt đường (maricika). Ráng nắng hiện lên khi ánh nắng tiếp xúc với mặt đường, làm lóe con mắt khi nhìn thấy chúng. Ráng nắng là không thật, như ảo ảnh, do đó ta không thể nằm bắt chúng được. Vì vậy không có gì phải tham đắm vào tưởng đẹp, xấu, vui vẽ và trường tồn.

Vì sao ví chư Hành tợ như cây chuối? Như một thân cây chuối (kadalikkhandha) là một tập hợp của nhiều lớp vỏ, mỗi lớp cấu thành mỗi đặc trưng riêng của mình, do đó tổng hợp của các tâm hành là một tập hợp của nhiều hiện tượng, đều có đặc điểm riêng của nó.

Và thế nào là quán thức như ảo tưởng? Ý thức giống như một ảo ảnh huyền diệu, theo nghĩa nó là không sáng suốt và không thể nắm bắt. Ý thức thậm chí còn ngắn ngủi và tạm thời hơn một ảo ảnh huyền diệu. Vì nó cho ấn tượng rằng một người đi, đứng, nằm và ngồi, với cùng một tâm trí, nhưng tâm trí thì khác nhau trong mỗi hoạt động này. Ý thức lừa dối mọi người giống như một ảo ảnh huyền diệu.

Thanh Tịnh Đạo giải thích chi tiết hơn: ‘Còn về pháp giới, thì thọ uẩn nên xem như mủi tên, như cọc nhọn, tưởng và hành uẩn như bệnh, vì liên hệ với mủi tên thọ uẩn. Hoặc, tưởng của phàm phu như nắm tay trống rỗng, vì nó phát sinh đau khổ do thất vọng (ước muốn bị trái ngang), hay như con nai rừng đối với người bù nhìn, bởi nó thấy tướng một cách sai lạc. Và hành uẩn như kẻ ném người ta vào hố than hừng, vì chúng ném người vào kiết sanh, hay như tên cướp bị quân lính theo đuổi, vì chúng bị các khổ sanh tử theo đuổi, hay như hột cây độc, vì nó làm nhân cho sự tiếp nối các uẩn, đem lại đủ thứ tai họa. Và sắc nên xem như bánh xe đao vì nó là dấu hiệu của các hiểm nguy.’

Như vậy chính trong mỗi uẩn cũng không có tự ngã, thì năm uẩn cấu thành một con người với đầy đủ danh và sắc là vô ngã, vô thường và khổ. Một người do tà kiến cố chấp, tâm còn mang nặng ngã tính do vô minhtham ái chi phối, chấp thân này là ta, là của ta như vậy người đó mang lấy gánh nặng năm uẩn này lên, chính là khổ ở đời. Nhưng khi người ấy liễu tri, thắng tri được năm uẩnvô ngã, người ấy không còn vị vô minhtham ái chi phối ‘tức đã đặt gánh nặng năm uẩn xuống rồi không mang thêm gánh nặng nào nữa, vị ấy được giải thoát tịnh lạc. Do vậy cần liễu tri, thắng tri vị ngọt và sự nguy hiểm và sự xuất ly của năm uẩn là vậy.

Tóm lại, năm uẩn là mảnh đất tốt cho tuệ tăng trưởng, hay nói cách khác chỉ có trí tuệ mới thấy rõ bản chất như thật về năm uẩn. Nhờ có tuệ mới thắng tri, liễu tri được năm uẩn và năm thủ uẩn. Nhờ có tuệ mới cắt đứt được vô minhtham ái khởi lên chấp thủ uẩn. Nhờ có tuệ mới thấy năm uẩnvô thường, khổ, vô ngã. Và với trí tuệ, hành giải thực tập quán chiếu về năm uẩn như vậy tâm sẽ khởi lên nhàm chán, ly tham, đoạn tận kiết sử, lậu hoặcđạt được giải thoát, giải thoát tri kiến. Điều này được khẳng định rõ ở Bát nhã tâm kinh“Khi Bồ tát Quán Tự Tại thực hành thâm sâu Bát nhã ba la mật đa, thấy được năm uẩn đều không, liền thoát khỏi hết thảy khổ ách.”

Ghi chú:

[1] Bhikkhu Bodhi, In the Buddha’ WordAn Anthology of Discourses from the Pāli Canon, Wisdom publications, Boston, 2005, p. 308.

[2] Bhikhu Bodhi, (trans.), Saṃyutta nikāya, Vol. 3, Wisdom publications, Boston, 2000, p. 886.

[3] Bhikkhu Bodhi, In the Buddha’ WordAn Anthology of Discourses from the Pāli Canon, Wisdom publications, Boston, 2005, p. 305-06.

[4] Buddhaghosa & Ñāṇamoli, Visuddhi- Magga, The Path of Purification, Buddhist Publication Society, Columbo, 2010, p. 468.

[5] Bhikhu Bodhi, (trans.), Samyuttara nikāya, The Connected Discourses of the Buddha, Wisdom publications, Boston, 2000, p. 915.

[6] G. P. Malalasekera, M. A. Ph. D.  Founder Editor-in Chief, Encyclopaedia Of Buddhism, Published by the Department of Buddhist Affairs, Ministry of Buddhasasana, Sri Lanka, 1962, p. 198.

[7] Rhys Davids, T.W (trs) Question of King Milinda, Part I, S.B.E, 1975, p. 97.

[8] Harcharan Singh Sobti, Nibbāna in Early Buddhism, EBL, Delhi, 2011, p. 110.

 Thích Trung Định

Tạp chí Văn hóa Phật giáo, số 328
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4347)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
(Xem: 4629)
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn.
(Xem: 4674)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng...
(Xem: 5833)
Có một chuyện rất khoa học, tôi không bắt quý vị phải nhắm mắt tin Phật nhưng tôi cho quý vị một gợi ý.
(Xem: 3282)
Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.
(Xem: 5245)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn
(Xem: 2912)
Hạnh phúctrạng thái cảm xúc khi ta thỏa mãn được nhu cầu nào đó của bản thân. Hạnh phúc khi được nhận. Có một loại hạnh phúc khác mà cảm xúc mang đến cho bạn nhiều hơn nữa: Đó là hạnh phúc từ sự cho đi.
(Xem: 4114)
Kỳ thực, trên đời này không ai có thể khiến chúng ta đau khổ ngoài chính bản thân mình, và cũng không ai có thể mang lại hạnh phúc cho chúng ta ngoài bản thân mình ra…
(Xem: 5256)
Bài kinh "Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước" là bài kinh ngắn, trích trong Kinh Tăng Chi Bộ, chương Ba, phẩm Kusinàra.
(Xem: 4239)
Đã gần vào Hạ mà đức Thế Tôn vẫn chưa khuyên giải được mâu thuẫn giữa hai nhóm Tỳ-kheo đều là đệ tử của Ngài.
(Xem: 3302)
Cuộc sống giản đơn sẽ tháo bỏ cho chúng ta những gông cùm trách nhiệm do chính chúng ta tự đeo vào cổ, giúp chúng ta có nhiều thời gian hơn để sống với những người thân yêu.
(Xem: 6339)
Bài kinh "Thanh Tịnh" là bài kinh ngắn, Đức Phật giảng cho các vị Tỷ-kheo khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 5301)
Sa-môn (Samana), Tỳ-kheo (Bhikkhu) hay Bí-sô (Bhiksu) là những danh xưng chỉ cho vị tu sĩ Phật giáo.
(Xem: 4605)
Kinh Trung A-Hàm được dịch sang Hán đầu tiên vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ mười chín (383) do một nhóm các vị tăng nhân người Ấn Độ nói chung thực hiện.
(Xem: 6209)
Trung đạo (madhyamā-pratipad) là con đường tu tập được kinh nghiệm từ chính Đức Phật.
(Xem: 6079)
Tâm lý thường tình của con người là tò mò, ưa những điều lạ lùng, kỳ dị và khác thường vì họ đã quá quen với cuộc sống bình thường, nên ...
(Xem: 3857)
Chúng sinh trong cõi “Dục giới” luôn chạy theo tìm cầu để hưởng thụ năm thứ dục lạc nên gọi là ngũ dục. Ngũ dục, chính là năm thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc.
(Xem: 6010)
Tứ động tâm là bốn Thánh tích thiêng liêng của Phật giáo tại Ấn Độ, ghi dấu bốn sự kiện trọng đại trong cuộc đờisự nghiệp hoằng hóa của Đức Phật Thích Ca.
(Xem: 4617)
Về mặt ngôn từ, thì chữ “công đức” là được dịch nghĩa từ chữ “punna” trong tiếng Pali. Tiếng Anh dịch thành chữ “merit”.
(Xem: 4767)
Nguyên nhân của sanh tử được nêu rõ trong Thập nhị nhân duyên, thuộc giáo lý căn bản của Phật giáo.
(Xem: 3366)
tại gia hay xuất gia, chúng ta đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiếng, lễ lạy
(Xem: 4910)
Ba-la-mật (pāramī or pāramitā) là các pháp hành để hoàn thiện nhân cách được nói đến trong kinh điểnchú giải, nhất là phần Hạnh Tạng thuộc Tiểu Bộ kinh.
(Xem: 3522)
Nói đạo Phật là đạo “cứu khổ ban vui” nhưng kỳ thực chẳng có ai ‘cứu’ mà cũng không ai ‘ban’ cho cả.
(Xem: 3451)
Mọi hiện tượng và sự vật trên thế gianhoàn vũ này không bao giờ độc lậptồn tại, mà do nhân duyên hòa hợp tạo thành.
(Xem: 5633)
Quan điểm thống nhất trong kinh điển là: sát sanh vi phạm giới luật đầu tiên và chiến tranh là sai lầm ngay cả khi chiến đấu cho mục tiêu phòng thủ hay tấn công.
(Xem: 4209)
Narayan Helen Liebenson, Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche và Blanche Hartman chia xẻ lời khuyên của họ về việc làm sao để ứng phó với các giai đoạn trầm cảm.
(Xem: 5967)
Niết-bàn là phước lạc tối thượng, một trạng thái hạnh phúc vĩnh cửu. Không thể trải nghiệm hạnh phúc của Niết-bàn bằng các giác quan mà bằng cách làm cho chúng tịch lặng.
(Xem: 5211)
Trong những bài pháp ngắn gọn, súc tích nhất để hướng dẫn tu hành khi chưa có giới bổn Patimokkha, Chư Phật đã chỉ ra con đường sống đạo,
(Xem: 3644)
Định hướng cuộc đời để đạt được mong muốn thích đángyếu tố quan trọng giúp cho ta thăng tiến trên đỉnh cao của sự giác ngộgiải thoát.
(Xem: 3736)
Hơn bao giờ hết, những bản dịch kinh điển rõ ràng dễ hiểu, được chú giải thận trọng, được thẩm định kỹ lưỡng trước khi đến tay người học Phật đang là một nhu cầu hết sức cấp thiết và quan trọng.
(Xem: 3692)
Nếu đời là vô thường, sự sống có giới hạn thì phải chăng con người ta khi sống nên có một chút ý nghĩa. Bạn ước mong gì?
(Xem: 3506)
Mong ước của tôi là chúng ta sẽ có dịp đồng hành cùng nhau trên hành trình tâm linh siêu việt của bạn.
(Xem: 5345)
“Tất cả những cảm thọ mà một người nhận chịu dầu đó là lạc thọ, khổ thọ hay vô ký thọ đều là kết quả của Nghiệp quá khứ, người nào quan niệm như vậy là tà kiến”.
(Xem: 3975)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương pháp giảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau.
(Xem: 4329)
Đất Phù Nam (Funan) bao trùm cả một phần Việt Nam, Căm Bốt (Cambodia), Mã Lai (Malaysia) và Thái Lan (Thailand).
(Xem: 5800)
Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo
(Xem: 3106)
Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta.
(Xem: 3047)
Đạo từ tâm sinh. Đi học đạo là học cho ta, để nhận chân được tự tâm, để tạo nên cái phẩm giá của ta
(Xem: 3833)
Người ngu si thiếu trí tuệ biến tự ngã của mình thành kẻ thù, lại tưởng kẻ thù của mình ở bên ngoài nhưng chính mình là kẻ thù của mình đó.
(Xem: 4829)
"Nầy các Tỳ Kheo, ta sẽ giảng dạy, và phân tích cho các ông nghe về con đường cao quý có tám phần. Khi ta nói, các ông hãy chú ý và lắng nghe."
(Xem: 3548)
Nếu tâm hồn biết thầm lặng kết “bạn đường” với thánh hiền tôn giáo, với các nhà hiền triết tâm linh, thì NĂNG LƯỢNG MẦU NHIỆM sẽ hiện hữu...
(Xem: 3014)
Có thể nói ngày nay, chiến tranh, hận thù, thương yêu, ghét bỏ, kỳ thị, náo động trên thế giới… đều do tà kiến mà ra.
(Xem: 4554)
Luật nhân quả có lẽ ai cũng biết và hầu như ít nhiều ai cũng tin. Tuy nhiên, để có được niềm tin không lay chuyển vào quy luật tự nhiêncông bằng ấy thì lại không dễ,
(Xem: 4707)
Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi đang ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức
(Xem: 3426)
Không ai có thể nói trước được chuyện gì sẽ xảy ra ở ngày mai, mặc dù ngày mai mặt trời vẫn lên.
(Xem: 3976)
Nhà Phật thường nhắc đến đạo lý sống Trung Đạo. Cái gọi là Trung Đạo chính là không đi theo hướng cực đoan, quá mức.
(Xem: 4709)
Nhiều trường phái Phật Giáo ngày nay vẫn tụng Kinh Pali, ngôn ngữ của Đức Phật lịch sử.
(Xem: 3545)
Hiện nay, quý vị trẻ thường thích thể hiện mình theo nhiều cách mà mọi người vẫn thường gọi chung chung là muốn khẳng định cái tôi.
(Xem: 3591)
Sắc thanh hương vị xúc pháp cấu thành thế giới của con người chúng taduyên sanh, vô tự tánh, bất khả đắcvô sở hữu
(Xem: 5115)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 4128)
Phật giáo cho rằng, mọi việc thành bại, li hợp ở đời đều không nằm ngoài nguyên tắc "nhân duyên quả báo".
(Xem: 3270)
Buông bỏ phiền não, trước hết là để giải tỏa mọi ưu tư, khiến người ta hạnh phúc.
(Xem: 2973)
Có những nhân quảnhân tạo trong đời này nhưng quả có khi phải qua đời sau hoặc những đời sau mới trỗ.
(Xem: 3017)
Sự quán sát, quán chiếu khởi từ danh tướng - danh là hương, là vị; tướng là những tính chất đặc trưng của chúng
(Xem: 3089)
Phật tử, tôi tâm đắc phần thuyết giảng về ái ngữ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
(Xem: 3085)
Ai cũng mong trong cuộc sống có rất nhiều niềm vui và thật ít nỗi buồn.
(Xem: 3455)
Con người bình thường, khỏe mạnh là một thể thống nhất hài hòa giữa hai yếu tố thân và tâm hay thể xác và tinh thần.
(Xem: 3989)
Người khéo tu lúc nào cũng nhớ quay lại mình, nhận ra và sống được với Tâm chân thật, ngoài ra tất cả đều vô thường hư ảo, không cần chú tâm làm gì.
(Xem: 5135)
Buông xả là một sự thực tập quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, cũng như con đường giải thoát của chúng ta.
(Xem: 2641)
Giá trị của tâm là sự thương yêuchân thực. Nếu một người mà tâm luôn tràn ngập tình thương đối với mọi người,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant