Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Con Đường “ Trung Đạo” Từ Nguyên Thủy Sang Đại Thừa

02 Tháng Mười 201905:24(Xem: 6262)
Con Đường “ Trung Đạo” Từ Nguyên Thủy Sang Đại Thừa

Con Đường “ Trung Đạo” Từ Nguyên Thủy Sang Đại Thừa  

Đức Ân


Con Đường “ Trung Đạo” Từ Nguyên Thủy Sang Đại Thừa

Trung đạo (madhyamā-pratipad) là con đường tu tập được kinh nghiệm từ chính Đức Phật, sau khi tận hưởng cuộc sống dục lạc trong cung điện hoàng giatrải qua sáu năm thực hành khổ hạnh, Ngài đã đạt được giác ngộ dưới cội cây bồ-đề.

Phật giáo Nguyên thuỷ (Theravada) định nghĩa trung đạo là sự từ bỏ hai cực đoan: hưởng thụ dục lạcthực hành khổ hạnh. Đây được gọi là căn bản nhất của con đường trung đạo. Một quan điểm khác của Trung đạo là sự xa rời hai quan điểm: thường hằng (āśvata) và đoạn diệt (uccheda).

Trong khi Phật giáo Đại thừa (Mahāyāna) đề cập trung đạo gắn liền về mặt nhận thức, điều này được thể hiện qua tinh thần không chấp trước, thường phủ nhận sự bảo thủ về các quan điểm. Từ ý nghĩa của việc không chấp vào bất kỳ thiên kiến nào đồng thời y cứDuyên khởitánh Không (śūnyatā) để hình thành triết học Trung đạo được xem là đóng góp nổi bật của ngài Long Thọ (Nāgārjuna).

Trung đạo là sự tránh xa hai cực đoan: dục lạckhổ hạnh

Trong kinh Vô tránh Phân biệt (Araṇavibhanga Sutta [Mn. 139]) Đức Phật đã nói với các vị Tỳ-kheo:

“… chớ có hành trì dục lạc, hạ liệt, đê tiện, phàm phu không xứng bậc thánh, không liên hệ mục đích. Và cũng không nên hành trì tự kỷ khổ hạnh, đau khổ, không xứng bậc thánh, không liên hệ mục đích. Từ bỏ hai cực đoan ấy, có con đường trung đạo đã được Như Lai giác ngộ, tác thành mắt, tác thành trí, đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ, niết-bàn”1 .

Đức Phật khuyên mọi người không nên rơi vào hai lối sống buông thả, tham đắm và khắc khổ. Hai lối sống này không có lợi cho bản thân và người khác.

Lối sống buông thả dục lạc là gì? Đó là chủ nghĩa duy vật của Ajita Kesakambali sống vào thế kỷ thứ VI trước tây lịch tại Ấn Độ, đã chủ trương rằng:

“… không có bố thí, không có lễ hy sinh, không có tế tự, không có quả dị thục các nghiệp thiện ác, không có đời này, không có đời khác, không có mẹ, không có cha, không có các loại hoá sanh, ở đời không có các vị sa-môn, những vị bàla-môn, chánh hướng, chánh hạnh, đã tự mình chứng tri giác ngộ đời này đời khác và truyền dạy lại. Con người này do bốn đại hợp thành, khi mệnh chung, địa đại trở về trả lại cho địa giới, thuỷ đại trở về trả lại cho thuỷ giới, hoả đại trở về trả lại cho hoả giới, phong đại trở về trả lại cho phong giới, các căn nhập vào hư không… chỉ có người ngu mới tán dương sự bố thí, lời nói của chúng trống không, giả dối, khi chúng chấp thuyết có sự sống. Kẻ ngu cũng như người hiền, sau khi thân hoại mạng chung sẽ đoạn diệt, tiêu thất, không còn tồn tại sau khi chết”2 .

Một quan điểm sống và hưởng thụ như thế không những không đem lại hạnh phúc mà còn gây ra những nguy hiểm cho bản thânxã hội. Tất nhiên lối sống này là sự sa đoạ, không đạo đức, không luân hồi, nên chỉ hưởng thụ mọi thứ và có thể làm mọi việc trong đời này mà không sợ nghiệp quảđời sau vì khi chết là kết thúc.

Lối sống khắc khổ là gì? Trong Tiểu kinh Khổ uẩn (Cūladukkhakkhanda Sutta) Đức Phật đã phê phán quan điểm sai trái của Nigantha Nataputra là một ẩn sĩ khổ hạnh ngoại đạo, khi ông này dạy các đệ tử của mình như sau:

“Này các Nigantha, nếu xưa kia các ngươi có làm ác nghiệp, hãy làm cho ác nghiệp tiêu mòn bằng khổ hạnh khốc liệt này. Sự không làm ác liệt trong tương lai chính do sự hộ trì về thân, sự hộ trì về lời nói, sự hộ trì về ý ngay trong hiện tại, ở tại nơi đây. Như vậy, chính nhờ sự thiêu đốt, sự chấm dứt các nghiệp quá khứ, sự không làm các nghiệp mới, mà không có sự tiếp tục trong tương lai. Do sự không tiếp tục trong tương lai, các nghiệp được diệt trừ, do nghiệp được diệt trừ, khổ được diệt trừ; do khổ được diệt trừ, cảm thọ được diệt trừ; do cảm thọ được diệt trừ, tất cả khổ đau sẽ được tiêu mòn”3 .

Theo đó, một người muốn tiêu diệt ác nghiệp trong quá khứ bằng cách thực hành khổ hạnh khiến cơ thể ngày càng đau khổ thì ác nghiệp sẽ tiêu trừ; và sự đoạn diệt ác nghiệp sẽ làm cho cơ thể thanh tịnh và đưa đến giải thoát. Quan điểm chấm dứt nghiệp này hoàn toàn khác với quan điểm chuyển hóa nghiệp của Phật giáo. Trong ba nghiệp, tâm là quan trọng nhất, thân làm ác, miệng nói những lời ác đều xuất phát từ tâm mà ra. Do đó, việc chuyển đổi ác tâm sang thiện tâm hoặc từ vô minh sang trí tuệ rất quan trọng.

Trong Phật giáo, sự thực hành không phải là thực hành khổ hạnh, mà phải cần những điều kiện vật chất đủ để nuôi dưỡng thân thể khỏe mạnh để đảm bảo đời sống tu hành. Điều đó cũng có nghĩa là sống thiểu dục tri túc, luôn hài lòng và biết đủ với những gì mình đang sở hữu. Đó là một cách hiệu quả để chúng ta vượt sự cám dỗ của những đam mêtham dục hay trầm mình trong con đường ép xác đau khổ. Vì vậy, hưởng thụ dục lạc là một cực đoankhổ hạnh cũng là một cực đoan. Cả hai lối sống này đều không mang lại trạng thái bình yên của cơ thể và tâm trí. Do đó, việc từ bỏ hai thái cực này là ý nghĩa của Trung đạo đã được Đức Phật giảng dạy thông qua con đường Bát chánh đạo gồm có chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệmchánh định.

Trung đạotừ bỏ hai cực đoan: chấp cóchấp không

Trước khi xuất hiện khái niệm chấp cóchấp không thì những vấn đề siêu hình đã được ngoại đạo Vacchagotta chất vấn Đức Phật trong kinh dạy Vacchagotta về lửa.

- Thế giới này là thường hoặc vô thường, hoặc cả hai, hoặc không.

- Thế giới này hữu biên hoặc vô biên, hoặc cả hai, hoặc không.

 - Sinh mạng và thân thể là một hoặc khác.

- Như Laitồn tại sau khi chết, hoặc không tồn tại sau khi chết, hoặc cả hai, hoặc không4 .

Đây là những vấn đề được các nhà triết học Ấn Độ đương thời quan tâm, những người muốn Đức Phật làm rõ quan điểm của Ngài. Trên thực tế, Đức Phật luôn giữ im lặng bởi vì những câu hỏi này hoàn toàn dựa trên những lý do trừu tượng và huyền bí. Nếu bám vào những câu hỏi đó bằng những lập luận thuần túy sẽ rơi vào cái bẫy của sự hiểu biết, công thức và tính đối ngẫu thông thường, điều này sẽ dẫn đến cuộc tranh luận bất tận xoay quanh những vấn đề siêu thực, dẫn con người ta đến sự ảo tưởng.

Trong Tương ưng bộ, thiên Nhân duyên, Đức Phật đã nói với Kaccānagotta rằng:

“Này Kaccāyana, thế giới này phần lớn y chỉ vào hai cực đoan này: có và không có. Này Kaccāyana, ai với chánh trí huệ thấy như chơn thế giới tập khởi, vị ấy không chấp nhận thế giới này là không có. Này Kaccāyana, ai với chánh trí tuệ thấy như chơn thế giới đoạn điệt, vị ấy không chấp nhận thế giới là có”5 .

Một số triết gia có những suy tư siêu hình, muốn tìm hiểu bản chất của thế giới này là gì? Làm thế nào nó tồn tại? Nó tồn tại vĩnh cửu hay đoạn diệt? Cho rằng thế giớivĩnh cửu là một thiên kiến; cho rằng thế giớiđoạn diệt cũng là một thiên kiến khác. Hai quan điểm này thường mâu thuẫnđối kháng lẫn nhau. Đối với hai quan điểm này, Đức Phật đã không chấp nhận: “Tất cả là có, này Kaccāyana, là một cực đoan. Tất cả là không có, là cực đoan thứ hai. Xa lìa hai cực đoan ấy, này Kaccāyana, Như Lai thuyết pháp theo trung đạo”6 .

Thế giới này hay mỗi hiện hữu vốn dĩ tồn tại với trạng thái vô thường, biến đổi không ngừng, bởi vì chúng đều do duyên hòa hợp, nương tựa lẫn nhau để tạo thành. Nếu mỗi phần (bất cứ pháp nào) trong thế giớivô thường, thì thế giới to lớn không thể không thay đổi. Nếu thế giới đang thay đổi, thì không có thứ gì nhất định được gọi có hoặc gọi không.

Tất cả các pháp vốn dĩ không có tự tánh, chúng tồn tại phụ thuộc vào duyên sanh. Nếu chúng ta nghĩ rằng một vật nào đó thật có, thì đó là một quan điểm cực đoan. Ngược lại, chúng ta thấy một vật nào không thật có, thì đó cũng là một cực đoan khác. Rời khỏi hai thái cực có và không được gọi là Trung đạo.

Trung đạo của Long Thọ (Nāgārjuna)

Trước khi giải thích ý nghĩa của Trung đạo của Long Thọ, cần lưu ý giai đoạn của Phật giáo Đại thừa.Theo lịch sử của Phật giáo Ấn Độ, tư tưởng Prajñā (trí tuệ) của Phật giáo Đại thừa xuất hiện sau thời kỳ của Phật giáo Bộ phái. Đại thừa phát triển tư tưởng tánh Không (śūnyatā) và phê phán tư tưởng của các trường phái Phật giáo và phi Phật giáo. Vào thời điểm đó, các bộ phái chia rẽ vì mỗi bộ phái đều bảo thủ quan điểm của họ, không chấp nhận học thuyết của bộ phái khác. Tiểu thừa (Hīnayāna) chú trọng vào sự sinh và diệt, Bàla-môn giáo (Brāhmaṇa) có khuynh hướng trường tồn, Nhất thiết hữu bộ (Sarvastivāda) chủ trương tư tưởng ngã là không và pháp là thật, Tỳ-bà-sa bộ (Vaibhāsika) và Kinh lượng bộ (Sautrāntika) chủ trương thuyết duy thực, Du-già tông (Yogācāra) cho rằng vạn vật đều do thức sinh ra… Long Thọ gọi những chủ trương đó là những lập luận vô nghĩa (prapañca) chỉ bị xóa bỏ bằng Bát bất Trung đạo.

Vì vậy, học thuyết về Trung đạo trong thời kỳ Đại thừa được trình bày bởi Long Thọ trong Trung quán luận (Mūlamadhyamaka-kārikā) đã tách khỏi khái niệm Trung đạo của Phật giáo sơ khai.

Trung đạo là lý Duyên khởi (prattyasamutpāsa) tánh Không (śūnyatā)

Long Thọ đã dựa vàoduyên sanh để thiết lập con đường Trung đạo. Theo đó, không có gì là tuyệt đối, mọi thứ đều tương đối, tất cả các pháp đều phụ thuộc lẫn nhau để hình thành và tồn tại, không có một sự vật nào độc lập trong quá trình thành, trụ, hoại, không. Nói cách khác, vì các pháp đều duyên sanh, cho nên tánh Khôngbản chất của các pháp.

“Chúng nhân duyên sanh pháp
Ngã thuyết tức thị không Diệc vi thị giả danh

Diệc thị trung đạo nghĩa”. (Pháp do các duyên sanh Ta nói tức là không Cũng chỉ là giả danh Cũng là nghĩa trung đạo). (Kệ 18, phẩm 24: Quán về Tứ đế, Trung luận, Thích Thiện Hạnh dịch)

Duyên sanhtánh Không không phải là khái niệm mà là bản chất của mọi sự hiện hữu, y cứ duyên sanhtánh Không để nhìn thấy các pháp đều không thật, chúng chỉ là giả danh. Đây là ý nghĩa của trung đạo.

Bát bất Trung đạo Long Thọ nắm bắt ý nghĩa sâu xa của lý Duyên sanh để hiển thị tám sự phủ định bao gồm các bốn cặp trái ngược:

“Bất sanh diệc bất diệt
Bất thường diệc bất đoạn
Bất nhất diệc bất nhị
Bất lai diệc bất xuất
”. (Chẳng sanh cũng chẳng diệt Chẳng thường cũng chẳng đoạn Chẳng một cũng chẳng khác Chẳng đến cũng chẳng đi). (Kệ 1, Phẩm 1: Quán Về Nhân Duyên, Trung luận, Thích Thiện Hạnh dịch)

Trong tám sự phủ định, tất cả các đặc tính của mỗi hiện hữu đều bị phủ nhận, không có đặc tính nào là cố hữu.
+ Chẳng sanh cũng chẳng diệt phá vỡ quan điểm sanh và diệt.
+ Chẳng thường cũng chẳng đoạn phá vỡ quan điểm thường và đoạn.
+ Chẳng một cũng chẳng khác phá vỡ quan điểm đồng nhất và khác biệt.
+ Chẳng đến cũng chẳng đi phá vỡ quan điểm đến và đi.

Thật ra, tám sự phủ định khôngmục đích đặc biệt nào, mà chỉ để phá vỡ sự bảo thủ của các trường phái. Thông qua tám sự phủ định những tư tưởng, quan điểm, định kiến không thể đưa con người đến với sự thật. Cho nên, con đường trung đạo chính là không cố chấp, không bám víu, không bảo thủ vào bất kỳ học thuyết, triết lý, chủ trương nào, vượt qua mọi khái niệm mới có thể tiến gần đến chân lý.

Trung đạo là một hệ tư tưởng rất quan trọng trong Phật giáo. Khi nói đến việc xa lánh hai cực đoan: hưởng thụ dục lạckhổ hạnh, một số người kết luận nhanh chóng rằng nền tảng của giáo lý của Đức Phật là một hình thức tương đối chỉ để cân bằng đời sống hiện tại. Nhưng thật ra, Trung đạo không phải chỉ là lối sống mà còn là pháp thực hành để đạt đến giải thoát.

Ngài Long Thọ đã kế thừa và phát triển Trung đạo dựa vàoDuyên khởi, nổi bậtBát bất Trung đạo với mục đích phê phán các chủ trương của các giáo phái nhằm xây dựng lại một nhận thức đúng về thực tại. Triết lý Trung đạo của Long Thọ không chỉ phá vỡ tất cả các mô hình khái niệm, ngôn luận vô nghĩa, nhận thức sai lầm, quan niệm bảo thủ mà còn giúp mọi người hiểu rõ bản chất của các pháp, đạt được tinh thần vô chấp.

Chú thích:
1. Kinh Vô tránh Phân biệt, kinh số 139 thuộc Trung bộ kinh, HT.Thích Minh Châu dịch.

2. Kinh Sa-môn quả (Samaññaphala Sutta), kinh số 2 thuộc Trường bộ kinh, HT.Thích Minh Châu dịch.
3. Tiểu kinh Khổ uẩn, kinh số 14 thuộc Trung bộ kinh, HT.Thích Minh Châu dịch.
4. Kinh Dạy Vacchagotta về lửa (Aggivacchagotta Sutta), kinh số 72 thuộc Trung bộ kinh, HT.Thích Minh Châu dịch. 5&6. Tương ưng Nhân duyên, tập II, phẩm Đồ ăn, Phần XV. Kaccānagotta thuộc Tương ưng bộ kinh, HT.Thích Minh Châu dịch.

Đức Ân | Văn Hóa Phật Giáo Số 325 ngày 15-7-2019 |
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4996)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 4385)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
(Xem: 4672)
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn.
(Xem: 4714)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng...
(Xem: 5877)
Có một chuyện rất khoa học, tôi không bắt quý vị phải nhắm mắt tin Phật nhưng tôi cho quý vị một gợi ý.
(Xem: 3310)
Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.
(Xem: 5280)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn
(Xem: 2948)
Hạnh phúctrạng thái cảm xúc khi ta thỏa mãn được nhu cầu nào đó của bản thân. Hạnh phúc khi được nhận. Có một loại hạnh phúc khác mà cảm xúc mang đến cho bạn nhiều hơn nữa: Đó là hạnh phúc từ sự cho đi.
(Xem: 4161)
Kỳ thực, trên đời này không ai có thể khiến chúng ta đau khổ ngoài chính bản thân mình, và cũng không ai có thể mang lại hạnh phúc cho chúng ta ngoài bản thân mình ra…
(Xem: 5300)
Bài kinh "Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước" là bài kinh ngắn, trích trong Kinh Tăng Chi Bộ, chương Ba, phẩm Kusinàra.
(Xem: 4277)
Đã gần vào Hạ mà đức Thế Tôn vẫn chưa khuyên giải được mâu thuẫn giữa hai nhóm Tỳ-kheo đều là đệ tử của Ngài.
(Xem: 3334)
Cuộc sống giản đơn sẽ tháo bỏ cho chúng ta những gông cùm trách nhiệm do chính chúng ta tự đeo vào cổ, giúp chúng ta có nhiều thời gian hơn để sống với những người thân yêu.
(Xem: 6368)
Bài kinh "Thanh Tịnh" là bài kinh ngắn, Đức Phật giảng cho các vị Tỷ-kheo khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 5357)
Sa-môn (Samana), Tỳ-kheo (Bhikkhu) hay Bí-sô (Bhiksu) là những danh xưng chỉ cho vị tu sĩ Phật giáo.
(Xem: 4645)
Kinh Trung A-Hàm được dịch sang Hán đầu tiên vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ mười chín (383) do một nhóm các vị tăng nhân người Ấn Độ nói chung thực hiện.
(Xem: 6121)
Tâm lý thường tình của con người là tò mò, ưa những điều lạ lùng, kỳ dị và khác thường vì họ đã quá quen với cuộc sống bình thường, nên ...
(Xem: 3909)
Chúng sinh trong cõi “Dục giới” luôn chạy theo tìm cầu để hưởng thụ năm thứ dục lạc nên gọi là ngũ dục. Ngũ dục, chính là năm thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc.
(Xem: 6045)
Tứ động tâm là bốn Thánh tích thiêng liêng của Phật giáo tại Ấn Độ, ghi dấu bốn sự kiện trọng đại trong cuộc đờisự nghiệp hoằng hóa của Đức Phật Thích Ca.
(Xem: 4650)
Về mặt ngôn từ, thì chữ “công đức” là được dịch nghĩa từ chữ “punna” trong tiếng Pali. Tiếng Anh dịch thành chữ “merit”.
(Xem: 4810)
Nguyên nhân của sanh tử được nêu rõ trong Thập nhị nhân duyên, thuộc giáo lý căn bản của Phật giáo.
(Xem: 3401)
tại gia hay xuất gia, chúng ta đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiếng, lễ lạy
(Xem: 6298)
Uẩn, thuật ngữ Pāli là khandha (Skt: skandha) thường được dịch sang tiếng Anh là ‘aggregates’ uẩn.
(Xem: 4963)
Ba-la-mật (pāramī or pāramitā) là các pháp hành để hoàn thiện nhân cách được nói đến trong kinh điểnchú giải, nhất là phần Hạnh Tạng thuộc Tiểu Bộ kinh.
(Xem: 3559)
Nói đạo Phật là đạo “cứu khổ ban vui” nhưng kỳ thực chẳng có ai ‘cứu’ mà cũng không ai ‘ban’ cho cả.
(Xem: 3486)
Mọi hiện tượng và sự vật trên thế gianhoàn vũ này không bao giờ độc lậptồn tại, mà do nhân duyên hòa hợp tạo thành.
(Xem: 5693)
Quan điểm thống nhất trong kinh điển là: sát sanh vi phạm giới luật đầu tiên và chiến tranh là sai lầm ngay cả khi chiến đấu cho mục tiêu phòng thủ hay tấn công.
(Xem: 4259)
Narayan Helen Liebenson, Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche và Blanche Hartman chia xẻ lời khuyên của họ về việc làm sao để ứng phó với các giai đoạn trầm cảm.
(Xem: 6015)
Niết-bàn là phước lạc tối thượng, một trạng thái hạnh phúc vĩnh cửu. Không thể trải nghiệm hạnh phúc của Niết-bàn bằng các giác quan mà bằng cách làm cho chúng tịch lặng.
(Xem: 5259)
Trong những bài pháp ngắn gọn, súc tích nhất để hướng dẫn tu hành khi chưa có giới bổn Patimokkha, Chư Phật đã chỉ ra con đường sống đạo,
(Xem: 3694)
Định hướng cuộc đời để đạt được mong muốn thích đángyếu tố quan trọng giúp cho ta thăng tiến trên đỉnh cao của sự giác ngộgiải thoát.
(Xem: 3776)
Hơn bao giờ hết, những bản dịch kinh điển rõ ràng dễ hiểu, được chú giải thận trọng, được thẩm định kỹ lưỡng trước khi đến tay người học Phật đang là một nhu cầu hết sức cấp thiết và quan trọng.
(Xem: 3713)
Nếu đời là vô thường, sự sống có giới hạn thì phải chăng con người ta khi sống nên có một chút ý nghĩa. Bạn ước mong gì?
(Xem: 3540)
Mong ước của tôi là chúng ta sẽ có dịp đồng hành cùng nhau trên hành trình tâm linh siêu việt của bạn.
(Xem: 5371)
“Tất cả những cảm thọ mà một người nhận chịu dầu đó là lạc thọ, khổ thọ hay vô ký thọ đều là kết quả của Nghiệp quá khứ, người nào quan niệm như vậy là tà kiến”.
(Xem: 4031)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương pháp giảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau.
(Xem: 4384)
Đất Phù Nam (Funan) bao trùm cả một phần Việt Nam, Căm Bốt (Cambodia), Mã Lai (Malaysia) và Thái Lan (Thailand).
(Xem: 5834)
Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo
(Xem: 3140)
Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta.
(Xem: 3082)
Đạo từ tâm sinh. Đi học đạo là học cho ta, để nhận chân được tự tâm, để tạo nên cái phẩm giá của ta
(Xem: 3883)
Người ngu si thiếu trí tuệ biến tự ngã của mình thành kẻ thù, lại tưởng kẻ thù của mình ở bên ngoài nhưng chính mình là kẻ thù của mình đó.
(Xem: 4873)
"Nầy các Tỳ Kheo, ta sẽ giảng dạy, và phân tích cho các ông nghe về con đường cao quý có tám phần. Khi ta nói, các ông hãy chú ý và lắng nghe."
(Xem: 3585)
Nếu tâm hồn biết thầm lặng kết “bạn đường” với thánh hiền tôn giáo, với các nhà hiền triết tâm linh, thì NĂNG LƯỢNG MẦU NHIỆM sẽ hiện hữu...
(Xem: 3069)
Có thể nói ngày nay, chiến tranh, hận thù, thương yêu, ghét bỏ, kỳ thị, náo động trên thế giới… đều do tà kiến mà ra.
(Xem: 4599)
Luật nhân quả có lẽ ai cũng biết và hầu như ít nhiều ai cũng tin. Tuy nhiên, để có được niềm tin không lay chuyển vào quy luật tự nhiêncông bằng ấy thì lại không dễ,
(Xem: 4752)
Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi đang ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức
(Xem: 3467)
Không ai có thể nói trước được chuyện gì sẽ xảy ra ở ngày mai, mặc dù ngày mai mặt trời vẫn lên.
(Xem: 4007)
Nhà Phật thường nhắc đến đạo lý sống Trung Đạo. Cái gọi là Trung Đạo chính là không đi theo hướng cực đoan, quá mức.
(Xem: 4746)
Nhiều trường phái Phật Giáo ngày nay vẫn tụng Kinh Pali, ngôn ngữ của Đức Phật lịch sử.
(Xem: 3591)
Hiện nay, quý vị trẻ thường thích thể hiện mình theo nhiều cách mà mọi người vẫn thường gọi chung chung là muốn khẳng định cái tôi.
(Xem: 3617)
Sắc thanh hương vị xúc pháp cấu thành thế giới của con người chúng taduyên sanh, vô tự tánh, bất khả đắcvô sở hữu
(Xem: 5166)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 4177)
Phật giáo cho rằng, mọi việc thành bại, li hợp ở đời đều không nằm ngoài nguyên tắc "nhân duyên quả báo".
(Xem: 3304)
Buông bỏ phiền não, trước hết là để giải tỏa mọi ưu tư, khiến người ta hạnh phúc.
(Xem: 3009)
Có những nhân quảnhân tạo trong đời này nhưng quả có khi phải qua đời sau hoặc những đời sau mới trỗ.
(Xem: 3046)
Sự quán sát, quán chiếu khởi từ danh tướng - danh là hương, là vị; tướng là những tính chất đặc trưng của chúng
(Xem: 3127)
Phật tử, tôi tâm đắc phần thuyết giảng về ái ngữ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
(Xem: 3123)
Ai cũng mong trong cuộc sống có rất nhiều niềm vui và thật ít nỗi buồn.
(Xem: 3493)
Con người bình thường, khỏe mạnh là một thể thống nhất hài hòa giữa hai yếu tố thân và tâm hay thể xác và tinh thần.
(Xem: 4021)
Người khéo tu lúc nào cũng nhớ quay lại mình, nhận ra và sống được với Tâm chân thật, ngoài ra tất cả đều vô thường hư ảo, không cần chú tâm làm gì.
(Xem: 5202)
Buông xả là một sự thực tập quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, cũng như con đường giải thoát của chúng ta.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant