Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Từ Ngũ Cú Thuyết (五句說) Trong Kinh Trung A- Hàm Đến Năm Thể Tài Trong Kinh Điển Bà-la-môn.

06 Tháng Mười 201905:11(Xem: 4628)
Từ Ngũ Cú Thuyết (五句說) Trong Kinh Trung A- Hàm Đến Năm Thể Tài Trong Kinh Điển Bà-la-môn.

TỪ NGŨ CÚ THUYẾT (五句說) TRONG KINH TRUNG A- HÀM
ĐẾN NĂM THỂ TÀI TRONG KINH ĐIỂN BÀ-LA-MÔN.

Chúc Phú

Từ Ngũ Cú Thuyết
 

Kinh Trung A-Hàm được dịch sang Hán đầu tiên vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ mười chín (383) do một nhóm các vị tăng nhân người Ấn Độ nói chung thực hiện. Theo Cao Tăng truyện quyển thứ nhất, bản kinh Trung A-Hàm đầu tiên do ngài Tăng-già-bạt-trừng (僧伽跋澄) tuyên đọc Phạn văn, ngài Đàm-ma-nan-đề (曇摩難提) viết ra chữ Phạn[1].

 Vào năm sau (384), Thái thú Vũ Oai Triệu Chánh (武威太守趙正) lại cầu thỉnh ngài Đàm-ma-nan-đề dịch Trung A-Hàm. Bản dịch Trung A-Hàm này phần lớn đã thất lạc và chỉ còn vài phiến đoạn trong Đại tạng kinh chữ Hán. Do vì bản dịch đầu tiên này còn nhiều điều cần bổ chính, nên hơn mười năm sau, vào niên hiệu Long An thứ hai (398) [2], bản kinh Trung A-Hàm lại được trùng dịch. Lúc này, ngài Tăng-già-đề-bà (僧伽提婆) tự mình tuyên đọc Phạn văn rồi dịch sang chữ Hán[3]. Đây là bản 61 quyển hiện được thu lục vào Đại tạng kinh Đại chánh tân tu mang số hiệu T0026, là để bản của bản dịch Tiếng Việt kinh Trung A-Hàm.

Dẫn xuất như vậy để thấy rằng, để bản Trung A-Hàm được kế thừa từ những nguồn khác nhau, chúng vừa được giữ gìn theo trí nhớ, vừa được ghi lại từ trí nhớ và tổng hợp cả hai yếu tố nêu trên. Và do vậy, trong toàn bộ nội dung kinh Trung A-Hàm, đã xuất hiện nhiều cú ngữ đặc thù, cô động đến mức khó có thể lý giải trọn vẹn. Ngũ cú thuyết (五句說) là một trường hợp như vậy.
1.    Ngũ cú thuyết trong kinh Trung A-Hàm.

Thành cú Ngũ cú thuyết (五句說) có nguyên tác như sau:

Nhân, duyên, chánh, văn và hí, gọi là Ngũ cú thuyết. (因, 緣, 正, 文,戲).

Trong kinh Trung A-Hàm, Ngũ cú thuyết xuất hiện trong một số bản kinh sau:

-        Kinh Tỳ-bà-lăng-kỳ (鞞婆陵耆), số 63.
-        Kinh Phạm-chí A-nhiếp-hòa (梵志阿攝惒), số 151.
-        Kinh Đầu-na (頭那) số 158.
-        Kinh A-lan-na (阿蘭那), số 160.
-        Kinh Phạm-ma (梵摩), số 161.

Tuy chỉ xuất hiện ở năm bản kinh trong toàn bộ 222 kinh Trung A-Hàm, thế nhưng nếu như chỉ căn cứ vào nghĩa của từng chữ thì không thể lý giải đầy đủ nghĩa của Ngũ cú thuyết này. Do vậy, nhằm góp phần giải mã tồn nghi nêu trên, chúng tôi sẽ lần lượt tham chiếu Ngũ cú thuyết hoặc tên gọi tương đương trong hai nguồn kinh điển chủ yếu, từ Hán tạng cho đến Nikāya.
2.    Ngũ cú thuyết trong kinh văn Hán tạng.

Có hai nguồn thư tịch quan trong trong kinh văn Hán tạng đề cập đến Ngũ cú thuyết nhưng được định danh với tên gọi khác nhau.

Thứ nhất, theo kinh Tạp A-Hàm, số 886, gọi là Ngũ chủng ký (五種記). Kinh ghi:

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Bà-la-môn:

-Thế nào gọi là ba minh của Bà-la-môn?

Bà-la-môn bạch Phật rằng:

-Thưa Cù-đàm, cha mẹ Bà-la-môn đều thuần chủng, không có các tì vết, cha mẹ bảy đời truyền nối mà không bị người chê bai, cha truyền con nối, luôn làm sư trưởng, biện tài đầy đủ; đọc tụng các kinh điển, định danh tự vạn vật, tính sai khác của vạn vật; phép tắc chữ nghĩalịch sử xưa nay, năm pháp thức này đều phải thông đạt và dung sắc đoan chánh. Thưa Cù-đàm, đó gọi là ba minh của Bà-la-môn.

Nguyên tác:

爾時,世尊告婆羅門言:云何名為婆羅門三明?

婆羅門白佛言:‘瞿曇!婆羅門父母具相,無諸瑕穢,父母七世相承,無諸譏論,世世相承,常為師長,辯才具足;誦諸經典、物類名字、萬物差品、字類分合、歷世本末,此,悉皆通達,容色端正。是名,瞿曇!婆羅門三明.[4]

Như vậy, Ngũ chủng ký (五種記) theo kinh Tạp A-Hàm là một trong những tiêu chuẩn quan trọng để hợp thành ba minh của Bà-la-môn. Ở đây, năm pháp thức đó là: đọc tụng các kinh điển, định danh tự vạn vật, tính sai khác của vạn vật; phép tắc của chữ nghĩalịch sử xưa nay.

Thứ hai, theo kinh Phật thuyết Bạch y kim tràng nhị Bà-la-môn duyên khởi (白衣金幢二婆羅門緣起經) gọi là Ngũ chủng ký luận (五種記論). Kinh ghi:

Lúc ấy Thế Tôn bảo hai vị Bà-la-môn Bạch yKim tràng:

-Các ông nên biết! Những Bà-la-môn tự cho rằng mình thông đạt ba minh nên xưng là chủng tộc tối thượng, dòng họ thanh tịnh, giữ lửa thờ trời, được sanh trong dòng tộc ưu thắng, cha mẹ đều thanh tịnh, dòng dõi thuần lương cho đến bảy đời, cha mẹ thanh cao, tôn quý; chủng tộc thù thắng, không tạo tội lỗi, không bị phỉ báng. Được như vậy đều nhờ chủng tộc thanh tịnh. Hơn nữa, phải thông suốt tường tận năm loại ký luận, bao gồm:

1. Các lý luận căn bản[5] và pháp rốt ráo của ba bộ Vệ-đà[6].
2. Định danh các vật
3. Cai-tra-bà-na (該吒婆那)
4. Văn tự, câu cú và chương tiết.
5. Ngôn ngữ kỳ diệu của hý tiếu.

Nguyên tác

爾時,世尊告白衣金幢二婆羅門言: ‘汝等當知,諸婆羅門,自謂了達三明,名稱上族,種姓清淨,從事火天勝族中生,父淨母淨,善生善種,乃至七世,父母尊高,種族殊勝,無罪無謗,是等皆因種姓淨故.又謂洞達明了五種記論,一本母法等究竟三明,二諸物定名,三該吒婆那,四文字章句,[7].

Trong Ngũ chủng ký luận (五種記論) của bản kinh này có cụm từ Cai-tra-bà-na (該吒婆那) được phiên âm từ chữ Phạn nên không hiểu đó là gì. Điều này, sau khi tham chiếu các nguồn thư tịch ở Nikāya, chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này.
3.    Ngũ cú thuyết trong kinh tạng Nikāya.

Trong kinh tạng Nikāya, Ngũ cú thuyết được gọi là Năm thể tài (pañcamānaṃ). Cú ngữ này xuất hiện rải rác trong cả ba bộ Nikāya. Để tiện theo dõi, chúng tôi lần lượt dẫn lại kinh văn, các đoạn trích dịch sau đều do HT. Thích Minh Châu dịch.
1.     Kinh Trường Bộ, kinh Chủng Đức (D.4)

Lại Tôn giả Sonadanda là nhà phúng tụng, nhà trì chú, thông hiểu ba tập Vedà với danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giảilịch sử truyền thống là thứ năm, thông hiểu ngữ pháp và văn phạm, biện tài về Thuận thế (tự nhiên học) và tướng của vị đại nhân.
2.     Kinh Trung Bộ, kinh Brahmāyu (M.91)

 Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn du hành ở Videha, cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị.

Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Brahmayu trú tại Mithila (Di-tát-la) già yếu, niên cao, lạp lớn, đã đến tuổi trưởng thượng, đã gần mãn cuộc đời, tuổi đã đến một trăm hai mươi, một vị đọc tụng Thánh điển, chấp trì chú thuật, tinh thông ba tập Veda, với tự vựng, lễ nghi, ngữ nguyên và thứ năm là các cổ truyện, thông hiểu từ ngữvăn phạm, thâm hiểu Thuận thế luận và Đại nhân tướng.
3.     Kinh Tăng Chi Bộ.

Ở đây, thưa Tôn giả Gotama, vị Bà-la-môn thiện sanh cả từ mẫu và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không bị một vết nhơ nào, không bị một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh, nhà phúng tụng, nhà trì chú, thông hiểu ba tập Veda với danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giải và các cổ truyện là thứ năm, thông hiểu ngữ pháp và văn phạm, biện tài về thuận thế (tự nhiên học) và tướng của các vị đại nhân. Như vậy, thưa Tôn giả Gotama, các vị Bà-la-môn diễn tả ba minh các vị Bà-la-môn. (A.3.58).

Thưa Tôn giả Gotama, nếu có ai nói một cách chân chánh, vị ấy phải nói rằng: "Vị Bà-la-môn thiện sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không một vết nhơ nào, một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh; là nhà phúng tụng, nhà trì chú, thông hiểu ba tập Vedà với danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giảilịch sử truyền thống là thứ năm, thông hiểu ngữ pháp và văn phạm, biện tài về thuận thế (tự nhiên học) và tướng của vị Đại nhân. (A.5. 192)
4.     Nguyên tác của Năm thể tài (pañcamānaṃ).

Như vậy, trong ba bộ Nikāya vừa dẫn ở trên, Năm thể tài (pañcamānaṃ) trong bản dịch Việt gần như giống nhau tuyệt đối, chỉ khác biệt ở một vài từ đồng nghĩa. Cơ sở của sự giống nhau đó dựa trên cú ngữ Pāli:

sanighaṇḍukeṭubhānaṃ sākkharappabhedānaṃ itihāsapañcamānaṃ

Ở đây:

sanighaṇḍu: từ vựng, ngữ vựng.
keṭubhānaṃ: nghi quỹ, nghi thức.
sākkhara: âm vị học, ngữ nguyên.
pabhedāna: phân tích ngữ âm, chú giải.
itihāsa: cổ truyện, sử truyện.

Năm thể tài này được áp dụng nhuần nhuyễn trên ba bộ Vệ-đà (tiṇṇaṃ vedānaṃ pāragū). Nói cách khác, muốn tiếp cận nghiên cứu, tụng đọc và giảng thuyết ba bộ Vệ-đà theo quan điểm của Bà-la-môn là phải am tường Năm thể tài (pañcamānaṃ) cơ bản này.

Đây là cơ sở tham chiếu quan trọng để lý giải một vài trường hợp chưa rõ nghĩa trong một số bản kinh chữ Hán, mà cụ thể ở đây là Ngũ cú thuyết (五句說) trong kinh Trung A-Hàm.
5.     Đối chiếu Năm thể tài (pañcamānaṃ) trong Nikāya và các cú ngữ tương đương trong kinh văn Hán tạng.
     1.   Kinh Tạp A-Hàm

Theo kinh Tạp A-Hàm, Ngũ chủng ký (五種記)  bao gồm:

Đọc tụng các kinh điển, định danh tự vạn vật, phẩm tính sai khác của vạn vật; phép tắc chữ nghĩalịch sử xưa nay.

(誦諸經典、物類名字、萬物差品、字類分合、歷世本末,此).

So sánh:
1. Đọc tụng các kinh điển, (誦諸經典), tương đồng với từ vựng, ngữ vựng (sanighaṇḍu), cần phải thông thuộc trong ba bộ Vệ-đà (tiṇṇaṃ vedānaṃ pāragū).
2. Định danh tự vạn vật (物類名字), tương đồng với nghi quỹ, nghi thức (keṭubhānaṃ).
3. Phẩm tính sai khác của vạn vật (萬物差品), tương đồng với âm vị học, ngữ nguyên (sākkhara).
4. Phép tắc chữ nghĩa (字類分合) tương đồng với phân tích ngữ âm, chú giải (pabhedāna).
5. Lịch sử xưa nay (歷世本末) tương đồng với cổ truyện, sử truyện (itihāsa).
     2.   Kinh Phật thuyết Bạch y kim tràng nhị Bà-la-môn duyên khởi (白衣金幢二婆羅門緣起經).

Trong bản kinh này, gọi là Ngũ chủng lý luận (五種記論), bao gồm:

1. Các lý luận căn bản và pháp rốt ráo của ba bộ Vệ-đà.
2. Định danh các vật
3. Cai-tra-bà-na (該吒婆那)
4. Văn tự, câu cú và chương tiết.
5. Ngôn ngữ kỳ diệu của hý tiếu.

So sánh
1. Các lý luận căn bản và pháp rốt ráo của ba bộ Vệ-đà (一本母法等究竟三明) tương đồng với từ vựng, ngữ vựng (sanighaṇḍu), cần phải thông thuộc trong ba bộ Vệ-đà (tiṇṇaṃ vedānaṃ pāragū)

2. Định danh các vật (諸物定名) tương đồng với âm vị học, ngữ nguyên (sākkhara).
3. Cai-tra-bà-na (該吒婆那). Cụm từ này là được phiên âm từ Phạn ngữ. Theo chúng tôi, đó là sự phiên âm từ chữ keṭubhānaṃ, tức là nghi quỹ, nghi thức.
4. Văn tự, câu cú và chương tiết (文字章句) tương  đương với phân tích ngữ âm, chú giải (pabhedāna).
5. Ngôn ngữ kỳ diệu của hý tiếu (). Cần lưu ý rằng, lịch sử của Ấn Độ cổ đại nói chung được thể hiện dưới dạng trường ca, tán ca. Trường ca là một thể loại văn chương gắn liền với hý khúc. Do vậy, yếu tố thứ năm này tương đồng với cổ truyện, sử truyện (itihāsa).

     3. Kinh Trung A Hàm

Trong kinh Trung A-Hàm, thành cú Ngũ cú thuyết (五句說), gồm:

Nhân, duyên, chánh, văn và hí. (因, 緣, 正, 文,戲).

So sánh
1. Nhân (因): là căn nguyên, là những lý luận căn bản của kinh điển Vệ-đà. Tương tự như cụm từ bổn mẫu pháp (本母法)của kinh Phật thuyết Bạch y kim tràng nhị Bà-la-môn duyên khởi vừa dẫn ở trên. Như vậy, Nhân (因) tương đương với từ vựng, ngữ vựng (sanighaṇḍu), cần phải thông thuộc trong ba bộ Vệ-đà (tiṇṇaṃ vedānaṃ pāragū).

2. Duyên (緣): theo từ nguyên, là yếu tố phụ nhưng có tác dụng bổ trợ hoặc làm cho đẹp thêm, khác biệt thêm. Đơn cử như câu: áo thuần lụa trắng, quần không viền lai ( 常衣大練,裙不加緣)[8]. Cụ thể hơn, trong Đại đường Tây-vức-ký, ngài Huyền Tráng ghi: Về quy cách ba y, bộ phái vâng giữ không đồng, hoặc đường biên rộng, hẹp; hoặc đường viền, nhỏ, to. (三衣裁製,部埶不同,或緣有寬狹,或葉有小大)[9]. Như vậy, duyên (緣) ở đây mang nghĩa phân tích, chú giải (pabhedāna).
3. Chánh (正): Ngoài những nghĩa thông thường, chữ chánh (正) ở đây còn mang nghĩa là tiêu chuẩn, chuẩn tắc (標准,准則). Ở nghĩa này sẽ tương đống với chữ keṭubhānaṃ, tức là nghi quỹ, nghi thức.
4. Văn (文): có nghĩa câu, chữ văn chương (文辭,詞句). Ở nghĩa này, Văn (文) hoàn toàn tương đồng với sākkhara, tức ngữ nguyên.
5. Hí (戲): tức hí kịch (戲劇), nghĩa là diễn lại sự tích cũ, gọi là vở kịch, vở tuồng. Ở nghĩa này, Hí (戲) tương đồng với chữ itihāsa, nghĩa là cổ truyện, s truyện.
6. Nhận địnhđề xuất.
Như vậy, Ngũ cú thuyết (五句說) trong kinh Trung A-Hàm là năm thể tài (pañcamānaṃ) mà một vị Bà-la-môn cần phải tinh thông mới được gọi là Bà-la-môn thông đạt tam minh. Do ảnh hưởng từ nhiều yếu tố, thế nên khi dịch sang Hán ngữ thì năm thể tài này được diễn đạt khác nhau, tùy theo từng bộ kinh, tùy theo kiến thức, quan điểm của từng nhà phiên dịch.

Ở đây, từ những đối chiếu và phân tích ở trên, thành cú Ngũ cú thuyết (五句說) trong kinh Trung A-Hàm bao gồm: nhân, duyên, chánh, văn và hí. (因,緣,正,文,戲), chúng tôi kính đề nghị chuyển dịch là:

Căn nguyên, chú giải, nghi quỹ, văn chươngcổ sử.

 



[1] 大正新脩大藏經第 50 冊 No. 2059《高僧傳》, 卷第一. Nguyên văn:跋[14]證口誦經本。T50n2059_p0328b08║外國沙門曇摩難提筆受為梵文

[2] 大正新脩大藏經第 55 冊 No. 2145《出三藏記集》, 卷第二.

[3] 大正新脩大藏經第 50 冊 No. 2059《高僧傳》, 卷第一. Nguyên văn: 提婆乃於般若臺。T50n2059_p0329a12║手執梵文口宣晉語

[4] 大正新脩大藏經第 2 冊 No. 99. 雜阿含經, 卷第三十一.[1]

[5] 大正新脩大藏經第 54 冊 No. 2131 翻譯名義集, : 梵語摩怛理迦。此云. 能生妙T54n2131_p1110c23║慧. 妙慧因論而生. 故展轉翻為論也. Tham chiếu, Hiển dương Thánh giáo, quyển 12: hết thảy sách vở, toán thuật, văn thơ và luận lý đều xuất phát từ bổn mẫu (世間一切書算詩論皆有T31n1602_p0538c24║).

[6] Nguyên tác tam minh (三明). Một cách gọi khác chỉ cho ba bộ Vệ-đà.

[7] 大正新脩大藏經第 1 冊 No. 10, 白衣金幢二婆羅門緣起經, 卷上.

[8] 後漢書,皇后紀上, 明德馬皇后.

[9] 大正新脩大藏經第 51 冊 No. 2087 大唐西域記, 卷第二

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13182)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19337)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24589)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15724)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37803)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13456)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13076)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17155)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13188)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17370)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21609)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13208)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14375)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12797)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13649)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28560)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23365)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34349)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28846)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32159)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11316)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 11996)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26257)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17349)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14514)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34448)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13104)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12268)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13390)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40497)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26901)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14443)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13222)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13440)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12507)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13121)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12295)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11772)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12551)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17651)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12192)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12734)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18424)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14280)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 12977)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11309)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12135)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13447)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10827)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11066)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10275)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28859)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25236)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26836)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25736)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18645)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 22981)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34504)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 32131)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 30361)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant