Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Vị Sa-môn Khất Sĩ

08 Tháng Mười 201903:18(Xem: 5222)
Vị Sa-môn Khất Sĩ

VỊ SA-MÔN KHẤT SĨ

Trần Tuấn Mẫn

An Cư Và Mãn Hạ


I. Khái quát

Sa-môn (Samana), Tỳ-kheo (Bhikkhu) hay Bí-sô (Bhiksu) là những danh xưng chỉ cho vị tu sĩ Phật giáo. Đối với một người theo đạo Phật, Đức Phật là vị Sa-môn đầu tiên, được gọi là vị Đại Sa-môn (Mahasamana). Hình ảnh Đức Thế Tôn thường được minh họa bằng tranh tượng với hình ảnh Ngài mang bình bát khất thực, mặc y hoại sắc, chân trần, rất đơn giản, rất nghiêm trang, thong dong, tự tại. Ngài khai sáng Phật giáo, lập Tăng đoàn Tỳ-kheo và đệ tử của Ngài được gọi là Sa-môn Thích tử (Sakyaputtaya Samana).

Thực ra, Sa-môn, Tỳ-kheo hay Bí-sô vốn có ý nghĩa giống nhau, nhằm chỉ những vị tu sĩ rời bỏ gia đình, sống nghèo nànkhất thực qua ngày. Người ta tìm thấy hình ảnh những vị này thấp thoáng trong vài bộ Áo nghĩa thư (Upanisad) được soạn khoảng sáu, bảy thế kỷ trước Tây lịch. Đếm ra có được 17 bộ trong 108 bộ Upanisad có nói đến việc từ bỏ đời thường (Sannyasa), đó là những vị tu sĩ được gọi là Bhikkhu, Sanyasin, Avahate, Paramahamsa. Sukumar Dutt trong Buddhist Monks and Monasteries of India (London, 1962) nêu dẫn thêm: “Những người biết đến Phạm thiên, từ bỏ ham muốn về con cái, giàu sang, của cảitrở thành Khất sĩ (Bhisacaryam Caranti)”.

Ông giải thích thêm một số từ trong Upanisad: Sannyasin là người loại bỏ mọi sự đời; Parivarajaka là người lang thang, không nhà cửa, không bà con thân thuộc; Bhiksu hay Bhikkhu (Bìsô, Tỳ-kheo) là những người không sở hữu, sống bằng khất thực. Vị ẩn sĩ, Khất sĩ còn được gọi là Sadhu (trong Ấn giáo), Sufi (trong Hồi giáo). Tuy vậy, giáo lý Phệ-đà (Veda) hay Bà-la-môn thời ấy không hề nhắc đến lối tu hành khổ hạnh, từ bỏ vật chất, sống nghèo khổ, khất thực để được thể nhập với Đại ngã. Do đó, có người cho rằng số bộ Upanisad nêu trên có thể được viết sau thời Phật giáo. Mặt khác, trong thời Đức Phật cũng có nhiều vị Sa-môn, Ba-lamôn không phải Phật giáo, được nổi tiếng như Pakadha Kaccayana, Sanjaya Belatthiputta, Nigantha Nathaputta (xem Trường bộ kinh, kinh Đại Bát Niết-bàn, số 16).

Ở châu Âu thời Trung cổ, nhiều thầy dòng Thiên Chúa giáo nghĩ rằng Chúa Jesus giáng sinh trong máng cỏ, sống trong gia đình nghèo khổ, nên các vị ấy chủ trương sống nghèo khổ, từ chối của cải vật chất, sống gần gũi người nghèo, sống bằng khất thực. Rất nhiều dòng tu theo chủ trương này được thành lập: dòng Franciscain, dòng Camelite, dòng Dominicain, dòng Augustinian… Điển hình là Thánh François d’Assise (1182- 1226), thuộc gia đình đại phú, con của một đại thương gia, đã chọn lối sống nghèo khổ, cùng các vị đồng tu đi khất thực. Nói chung, đây là những thầy thuộc dòng Khất sĩ (Mendicants Friars)…

Trong khi đó, vị Sa-môn hay Tỳ kheo của Phật giáo có nhiều nét nổi bật về giáo lý, về giáo luật, về phương pháp tu hành mang nhiều ý nghĩa về ba lĩnh vực này.

II. Minh họa vị Sa-môn Khất sĩ của Phật giáo

Thực ra, như trên đã nói, Sa-môn nghĩa là Sa-môn Khất sĩ, nghèo nàn, giản dị, tách biệt với đời, lang thang đây đó. Phong thái nhẹ nhàng của vị Sa-môn hay Tỳ-kheo Khất sĩ đơn độc du hành được miêu tả qua bài kệ của vị Đại sư Trung Hoa, Bố Đại Hòa thượng (布 袋和尚):

Nhất bát thiên gia phạn,
Cô thân vạn lý du,
Thanh mục đổ nhân thiểu,
Vấn lộ bạch vân đầu
.

Nguyên văn chữ Hán: 一钵千家饭, 孤身万里游。 睹人青眼在, 问路白云头.

Dịch nghĩa:
Một bát cơm ngàn nhà,
Đơn thân vạn dặm xa,
Mắt xanh người nhìn ít
Hỏi đường mây trắng qua.

Bài kệ thi vị và đầy thiền vị trên chỉ là sự minh họa về hình ảnh vị Sa-môn khất thực. Tuy nhiên, ý nghĩa bên trong của việc khất thực quan trọng hơn nhiều. Kinh Sa-môn quả (Trường bộ) ghi lời Đức Phật về một vị Sa-môn: Cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà-sa, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia tu đạo. Sau khi xuất gia như vậy, người ấy sống chế ngự thân, chế ngự lời nói, chế ngự ý nghĩ, bằng lòng với nhu cầu tối thiểu về ăn uống, y áo, hoan hỷ sống trong an tịnh”.

Kinh Pháp tập nêu lời dạy của Đức Phật khi Ngài đi khất thực:
1. Không tham đắm vị ngon,
2. Phá trừ ngã mạn,
3. Từ bi, bình đẳng, gây lợi ích cho chúng sinh.

Không tham đắm vị ngon nghĩa là không tham ái, thích các món ăn ngon, và dĩ nhiên là không tham đắm vào những cảm thọ, vào “tôi và của tôi”; phá trừ ngã mạn là từ tốn, hiền hòa, không cho mình là giỏi là hay hơn người; từ bi, bình đẳng, gây lợi ích cho chúng sinh là đến với mọi người, mọi nhà, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, địa vị xã hội, đến để giảng pháp, để tạo điều kiện cho mọi người làm công đức, biết gạt bỏ bớt những gì là “tôi và của tôi”…

Kinh Bảo ngũ nêu mười điều mà vị Sa-môn Bồ-tát phải ghi nhớ khi đi khất thực:
1. Nhiếp thụ các loài hữu tình,
2. Khất thực theo thứ lớp, không phân biệt giàu nghèo,
3. Không mệt mỏi, không nhàm chán việc khất thực,
4. Biết đủ, cụ thể là không khất thực thật nhiều, mong được món ngon hơn,
5. Phân chia thức ăn đã nhận được làm bốn phần: để ăn, để chia cho các vị đồng tu, cho người bần cùng, và cho chúng sinh trong đường ác,
6. Không tham luyến thức ăn,
7. Ăn vừa đủ để có sức khỏe,
8. Thể hiện các phẩm chất tốt
9. Phát triển thiện căn,
10. Lìa bỏ ngã chấp.

Kinh Đại bảo tích ghi lời Phật dạy Tôn giả Đại Ca diếp về việc khất thực của Tỳ-kheo, đại ý như sau: Vị Tỳ-kheo Khất sĩ phải giữ bốn thệ nguyện: không dua vạy, không yêu cầu được cho thức ăn, không nhờ Tăng chúng cho ăn, luôn giữ oai nghiêm. Khi khất thực, Tỳkheo không quan tâm đến vị ngon hay dở, khất thực theo thứ tự từng nhà, không quan tâm đến người cúng dườngthức ăn cúng dường; nếu không khất thực được gì thì cũng không buồn phiền; vì bệnh mà không đi khất thực được thì nên nghĩ rằng mình sống cô độc, Chánh pháp là bạn, nên suy gẫm Chánh phápthực hành thiền định; mưa bão lũ lụt lâu ngày không đi khất thực được, phải chịu đói thì nên an trú trong từ tâm, nghĩ rằng các chúng sanh mang nghiệp ác phải sinh vào đường ác và phải chịu đói khổ hàng trăm năm chứ không chỉ đói vài ngày như mình.

Trong kinh Duy-ma-cật có đoạn: “Dù không ăn mà vẫn đi khất thực, dù phá tướng hòa hợp mà vẫn bốc cơm ăn, dù không muốn nhận mà vẫn nhận món ăn của người, dù nghĩ rằng không có làng xóm mà vẫn vào làng xóm, thấy sắc mà như người mù, nghe tiếng mà như nghe tiếng vang, ngửi mùi mà như gió thổi, nếm vị mà không phân biệt, xúc chạm vật mà như thể hiện trí tuệ, biết các pháp là huyễn ảo, vô tự tính, vô tha tính”.

Ngài Duy-ma-cật còn nói: “Đối với cơm bình đẳng thì các pháp cũng bình đẳng, các pháp bình đẳng thì cơm cũng bình đẳng”.

Kinh Tăng nhất A-hàm quyển 47sách Tỳ-ni thảo yếu quyển 6 ghi rằng khi đi khất thực, Tỳ-kheo phải đi dọc hai bên đường, tay trái ôm bát, theo thứ lớp mà khất thực, không để ý thức ăn ngon hay dở, chỉ nhằm nuôi dưỡng mạng sống, nuôi dưỡng khí lực.

Các kinh trên đã nêu khá đủ về thái độ, tác phong đạo đức của vị Tỳ-kheo Khất sĩ. Vị Tỳ-kheo còn nhắm đến lợi ích cho chúng sanh. Đó là: Tạo duyên cho người ta bố thí, quên  “ta và của ta”, được nhiễm gương sáng về phong cách đạo hạnh của vị Tỳ-kheo, được thấm nhuần Phật pháp, ưa thích đời sống giản dị, thanh bần.

Đi khất thực là một phương cách để tu dưỡng, để độ sinh. Để tránh bị hiểu lầm về phẩm hạnh của Sa-môn và để ngăn ngừa sự nhiễm ô đối với những vị còn sơ cơ trên bước đường tu, luận Hiển dương Thánh giáo nêu năm nơi mà vị Sa-môn không nên đến khất thực: nơi vui chơi ca hát, nơi mua bán dâm, nơi bán rượu, nơi cung đình và nơi giết hại, buôn bán súc vật.

III. Đôi lời bàn luận

Đã hơn 25 thế kỷ qua kể từ thời Đức Phật, hình ảnh vị Tỳ-kheo hàng ngày đi khất thực vẫn tồn tại ở nhiều quốc gia châu Á. Hoàn cảnh sinh hoạt của Phật giáo thay đổi theo thời gian. Thời đại mới của khoa học và kỹ thuật ảnh hưởng lớn đến thể cách hành đạo nhưng tinh thần của truyền thống khất thực vẫn không mất đi, kể cả đối với Phật giáo Nguyên thủyPhật giáo Đại thừa: Nhà chùa nói chung vẫn giữ nếp thanh bần và vị Tỳ-kheo vẫn giữ cốt cách giản dị, không lưu giữ tiền bạc, của cải. Các Tỳ-kheo của Phật giáo Đại thừa hoặc Nguyên thủy tuy đã hạn chế nhiều hoặc ngưng hẳn việc khất thực hàng ngày nhưng để giữ gìn ý nghĩa khất thực, mỗi Tỳ-kheo đều có y bát riêng, sử dụng trong các buổi trai phạn suốt ba tháng an cư kiết hạ mỗi năm.

Ngày nay, theo đà văn minh của nhân loại, nhiều vấn đề xã hội, kinh tế, chính trị, đạo đức, môi sinh… nổi lên. J.J. Rousseau có thể rất đúng khi viết cuốn sách Contrat Social (Khế ước Xã hội) rằng xã hội càng văn minh thì đạo đứchạnh phúc của con người càng bị suy giảm. Do đó mà Phật giáo cần phát triển, hoằng pháp cần mở rộng cũng như nhiều tổ chức, nhiều tôn giáo khác nhằm giúp con người sống hạnh phúc, an bình. Do đó mà chùa chiền được xây dựng, trùng tu để quy tụ Phật tử, giúp họ đến với nếp sống hiền hòa của đạo Phật.

Đã có nhiều tự viện từ thời Đức Phật và càng lúc càng nhiều ở khắp nơi theo với thời gian. Điều này thật đáng mừng, đáng trân trọng. Nhưng cũng cần nhớ rằng đây là vì lòng mến mộ Phật giáo mà các thí chủ, gồm các vua chúa, hoàng gia, chính khách, đại gia… tự nguyện đứng ra thiết lập tự viện chứ các Tỳ-kheo không yêu cầu. Các thí chủ không vì mục đích chính trị hoặc kinh doanh, thu lợi nhuận bằng nhiều hình thức hoặc quảng cáo cho mình. Thỉnh thoảng người ta thấy có vị Tỳ-kheo kêu gọi chư tôn đức hay Phật tử xây chùa hay tu sửa chùa cho mình, hay đề nghị Phật tử mua sắm một số phương tiện sinh hoạt cho cá nhân mình. Điều này cũng như vị Sa môn Khất sĩ yêu cầu được cúng dường thức ăn, vật dụng cho mình. Như thế là phạm luật khất thực, phạm ý nghĩa thanh bần, điều mà Đức Phật ngăn cấm.

Mong sao. Tinh thần Sa-môn Khất sĩ vẫn được mãi mãi tồn tại trong Tăng-già tại các khắp tự viện Phật giáo trên thế giới.

Tài liệu tham khảo:
- Kinh Trường bộ (Đại bát Niết-bàn, Sa-môn quả); Kinh A-hàm, q.7; Kinh Bảo ngũ; Kinh An lạc; Kinh Duy-ma-cật; Tỳ-ni thảo yếu q.6; Luận Hiển dương Thánh giáo.
- Dukuma Dutt, Buddhist Monks and Monasteries of India, G. Allen & Unwin, London, 1962.
- Thích Chơn Thiện, Tăng-già thời Đức Phật, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội, 2000.
- Trần Tuấn Mẫn, Vấn đáp Phật giáo, Nxb Lao Động, Hà Nội, 2017.
- M.W. McLeod, The Way of the Mendicant.
- Hạnh Chơn, Truyền thống Khất thực, thuvienhoasen.org.
- Pháp Vương Tử, Khất thực
- một phép tu truyền thống của đạo Phật, phatgiao.org.vn.

 

Trần Tuấn Mẫn | Văn Hóa Phật Giáo Số 328 ngày 1-9-2019
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1405)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1225)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1279)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1439)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1067)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1172)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1188)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1590)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1552)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 2720)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1725)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1268)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1135)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1179)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1300)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1235)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1837)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1578)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1787)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1715)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2255)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1671)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2005)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 1996)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2157)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1750)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1865)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 1929)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1847)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 1998)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1829)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1765)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1844)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1782)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2053)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2151)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1862)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 1976)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1739)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1793)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2294)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2191)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 3691)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2343)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3004)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2373)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 1947)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1709)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3204)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2238)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 2926)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2590)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
(Xem: 1939)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
(Xem: 2901)
Tôi không cần giải thích tại sao bạn cần phải thực hành Pháp; tôi nghĩ bạn hiểu điều đó.
(Xem: 2539)
Thế giới chúng ta đang sinh sống ắt phải nằm trong “Hoa tạng thế giới”, tức là thế giới Hoa Nghiêm
(Xem: 3427)
Việc thẳng tiến bước trên con đường đạo lý thanh cao hầu đạt đến chân lý hạnh phúc chẳng khác nào bơi ngược dòng đời là một vấn đề...
(Xem: 3279)
Chúng ta thấy một sự vật bằng cách thấy màu sắc của nó và nhờ màu sắc ấy mà phân biệt với những sự vật có màu sắc khác
(Xem: 4104)
Tiếng Sankrit là Drama (tiếng Tạng là: cho) nghĩa là giữ lấy hoặc nâng đỡ. Vậy Pháp nâng đỡ hoặc duy trì cái gì?
(Xem: 3593)
Trong những nhà phiên dịch kinh điểnthời kỳ đầu của Phật giáo Trung Quốc, ngài Đàm-vô-sấm (曇無讖) hiện ra như một nhà phiên kinh trác việt[1].
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant