Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Mùa Hạ Trong Rừng

25 Tháng Mười 201910:31(Xem: 4261)
Mùa Hạ Trong Rừng
MÙA HẠ TRONG RỪNG

Thích Nữ Hạnh Chiếu



mua ha trong rung

Đã gần vào Hạ mà đức Thế Tôn vẫn chưa khuyên giải được mâu thuẫn giữa hai nhóm Tỳ-kheo đều là đệ tử của Ngài. Cuối cùng, Phật quyết định năm ấy vào rừng nhập Hạ. Độc cư một mình. Đó là mùa Hạ thứ 10 tại rừng Pãrileyyaka - Kosambi.

 

Đọc tới đây, đừng nói là chư Thánh đệ tử thời Phật còn tại thế đau lòng, mà những người con Phật thời mạt pháp như chúng ta cũng cảm thấy xót xa bùi ngùi. Xót xa cho ai, bùi ngùi cho ai? Cho Phật thì Phật đã hoàn toàn an vui giải thoát, đâu có gì để ta xót. Nói đệ tử không nghe thì thôi Phật không nói nữa, im lặng mà đi. Nhưng hình ảnh này, tâm tình này làm rúng động lòng người, khó mà quên được. Có một cái gì xót quá cho tình cha, tình thầy, cho hôm nay cho mai sau… Cho những đứa con đáng giận mà cũng đáng thương tới ngậm ngùi.

Chúng ta đâu không là đệ tử Phật, không biết Như Lai ngự ở trong tâm. Diễm phúc ấy, tình yêu thương ấy Phật dành cho chúng sanhvô tận. Vậy mà ta phủ nhận, ta từ chối và Phật đành phải ra đi. Một mình. Dĩ nhiên đức Như Lai không bao giờ để cho phiền não vây nhiễu. Các thầy cãi nhau mãi, đàn việt kéo tới không thấy Phật, họ không thèm cúng kiến gì nữa, còn bắt đền phải đi tìm Phật. Chừng đó mới hay, trước kia không nghe lời Phật thì bây giờ phải nghe lời chúng sanh, bị chúng sanh sai sử. Té ra sự thầm lặng ra đi của đức Phật lại mang một ý nghĩa giáo dục sâu xa, mạnh mẽ và kết quả hơn nhiều lời chỉ dạy.

Thân tâm bào ảnh, quốc độ nguy thúy, vậy mà một niệm lự trong tâm lại có sức mạnh ngàn cân, dẫn chúng sanh đi trong cát bụi tử sinh từ xửa từ xưa. Ta mê cãi nhau về một chậu nước nên úp hay nên ngữa mà quên mất cả quả địa cầu sắp nổ tung, cả tòa thân tâm bị nhiễm nhơ! Do đâu mà ra? Do không có Phật ở trong tâm, nên lầm lũi đi trong bóng tối vô minh, tạo nghiệp không cùng.

Kinh Pháp Cú kể về giai thoại này thật sống động. Sau khi Phật đã vào rừng nhập Hạ ba tháng, các thầy Tỳ Kheo theo Ngài A Nan vào rừng tìm Phật đảnh lễ sám hối, kèm theo là một trường khóc than kể lể… để thỉnh đức Thế Tôn trở về. Nghe xong, Phật vui vẻ bảo:

                        Tốt hơn sống một mình,
                        Không kết bạn người ngu,


                        Độc thân, không ác hạnh,
                        Sống vô tư vô lự,
                        Như voi sống rừng voi.

Nói rồi Phật lại lên đường. Tuy đi với các thầy nhưng vẫn trên tinh thần thường độc hành thường độc bộ. Một mình sống, một mình tu, một mình ôm trọn ba cõi vào lòng, rồi thanh thản thả vào hư vô cái không cùng không tận của một đấng Như Lai đi vào đời.

Ngày ta sống với điên đảo vọng tưởng là ngày không có Phật ở trong lòng, ngày bỏ rơi, ngày đau khổ. Không phải Phật bỏ rơi ta mà là ta bỏ rơi Phật. Ta không nhận ra Phật mặc dù Ngài vẫn ở bên ta, trong ta, dù ta có bay lên thiên đường hay xuống tận địa ngục. Phật vẫn vậy, yêu thươngđộ lượng. Nhưng ta chỉ chơi với phiền não, không chịu chơi với Phật. Đến khi chúng đánh cho tơi bời thì ta thản thốt kêu lên “Phật ơi cứu con!”. Như Lai đến ngay. Chỉ có điều chúng ta đã bấu vào ngã ái ngã chấp quá sâu quá lâu, bây giờ Phật bảo buông, buông không được nên muốn cứu, cứu cũng chẳng xong. Có chúng sanh nào dám liều mình ném quách cái giả ngã xuống đâu. Ném một cái thì còn chi để vui buồn sướng khổ???

Khi tôn giả A Nan đại diện tứ chúng vào rừng tìm Phật, voi Pãveyyaka lúc bấy giờ làm thị giả hầu Phật đã ra cản đường. Thế Tôn gọi lại: - Pãveyyaka! Hãy để thầy ấy đến với Như Lai, thầy là thị giả của ta đó. Chỉ cần nhớ Phật, đến với Phật là trong ta có Phật, trong Phật có ta. Chấm dứt nhân ngã bỉ thử, cuồng tâm loạn trí thì Phật trở về. Trở về như chưa từng vắng thiếu. Bao dung tha thứ là đức hóa vô lượng của các đấng Như Lai. Bởi vì Như Lai cũng chính là chân tánh của chúng sanh, có ai khác đâu mà không vô lượng. Tuy nhiên một khi tâm mê thì chỉ trong gang tấc mà chúng sanh và Phật muôn trùng cách xa.

Lại Rằm tháng Tư, lại mùa đản sanh, lại Như Lai đến với chúng con. Muôn đời Thế Tôn vẫn luôn như thế, dù chúng sanh có cang cường tới đâu, Như Lai mãi yêu thương trần gian điên dại này. Bởi vì Phật biết rất rõ cõi đời không thật, chúng sanh mộng huyễn không hoa. Có gì ngại đâu!

Và như thế, chúng con có bao giờ vắng thiếu đức Thế Tôn.
 

Thích Nữ Hạnh Chiếu 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 61)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 144)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 167)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 222)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 151)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 203)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 187)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 222)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 236)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 317)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 559)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 422)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 434)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 529)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 718)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 767)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 798)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 799)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 693)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 680)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 684)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 792)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 813)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 907)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 676)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 582)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 682)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 804)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 685)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 693)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 789)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 812)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 794)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 838)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 864)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 855)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1042)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 916)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1578)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1023)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1172)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 921)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1173)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1086)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1083)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1231)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1507)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1941)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1054)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1317)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1062)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 915)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1041)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1076)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1495)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1237)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1255)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 991)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1149)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant