Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Học chấp nhận chính là chìa khóa của hạnh phúc

26 Tháng Mười 201909:10(Xem: 4160)
Học chấp nhận chính là chìa khóa của hạnh phúc

Học chấp nhận chính là chìa khóa của hạnh phúc

Kỳ thực, trên đời này không ai có thể khiến chúng ta đau khổ ngoài chính bản thân mình, và cũng không ai có thể mang lại hạnh phúc cho chúng ta ngoài bản thân mình ra…

 

Trong cuộc sống, không ai có trách nhiệm phải quan tâm đến sự tủi thân uất ức của chúng ta, cũng chẳng ai có trách nhiệm phải quan tâm đến sự thất vọng của chúng ta. Vậy nên, chúng ta cần phải đối diện với sự thật, cần phải học được cách chấp nhận vạn sự vạn vật trên cuộc đời này. Nếu như có ai đó thất tín với chúng ta, chúng ta chỉ trích họ liệu có tác dụng thay đổi được gì không? Đương nhiên là không thể. Điều có thể chính là học cách chấp nhận, xem đó như là một bài học. Người khác lừa dối chúng ta, chúng ta phơi bày sự thật của họ liệu có thể đảo ngược thời gian không? Đương nhiên là không thể. Vậy nên hãy chấp nhận nó, chấp nhận một sự thực rằng: “Vì chúng tagiá trị nên mới bị người khác lợi dụng”. Nếu như có ai đó nói xấu bạn, bạn tranh luận đúng sai với họ liệu có thể thay đổi thành kiến của họ không? Đương nhiên là không thể. Điều có thể chính là chấp nhận sự thật này, và đường hoàng sống tiếp không hổ thẹn với lương tâm. Trong cuộc sống, chúng ta không thể mong muốn tất cả mọi người đều thuận ý với mình. Kỳ thực, người đầu tiên phải nghe những lời nói xấu về bạn lại chính là người nói ra chúng. Và cũng ví như khi người thân của chúng ta phải ra đi, chúng ta đau khổ kêu gào hỏi có thể mang họ quay trở về hay không? Câu trả lời chắc chắn là không! Điều có thể vẫn cứ là phải chấp nhận sự thật đau buồn đó. Cuộc sống chính là như vậy, có hợp ắt có ly, bi thương ly hợp đó là điều không thể tránh. Thế gian vốn dĩ không có việc nào không thể làm, không có con đường nào không thể đi, chỉ có lòng người đủ quyết tâm hay không. Đau khổ, trở ngại, vấp ngã, yêu và hận, tất cả đều chỉ là những mảnh ghép của cuộc đời, nhờ có chúng mà đời thêm màu sắc. Vậy nên, hãy nắm chắc hiện tại, sống cho thực tế với chính mình trong mỗi phút giây. Có thể mỗi chúng ta đều luôn mơ ước và hy vọng ngày mai tươi sáng, tuy nhiên ngày mai có thật sự tươi sáng hơn không? Ngày mai liệu chúng ta có thực sự bắt tay vào thực hiện những ước mơ, hoài bão của chính mình hay không? Chỉ có sống với hiện tại, chỉ có nỗ lực với hiện tại mới là sống cho ngày mai tươi sáng. Cuộc sống là không có chờ đợi ngày mai, hãy bắt tay vào làm sớm nhất có thể. Kỳ thực, mỗi một lần đau khổ chính là một lần trưởng thành. Có những lúc chúng ta khóc vì không thể có một đôi giày đẹp để đi, nhưng ngoài kia còn có bao nhiêu người ngay cả đôi chân còn khiếm khuyết. Vậy nên, thà rằng khoan dung cho người khác chứ không cầu người khác khoan dung bản thân mình. Vì sao người khác ám hại chúng ta, đánh chúng ta, phỉ báng chúng tachúng ta vẫn không nên hận họ? Dù bất kỳ hoàn cảnh nào chúng ta vẫn nên bảo trì một tấm lòng thiện lương thanh tỉnh. Là vì thiện lương chính là bản tính của mỗi người. Làm người, chúng ta không thể chọn con đường ác được, bởi ác có ác báo, thiện có thiện báo. Trên phương diện tình cảm, bao dung cho khuyết điểm của người khác chính là bao dung cho chính mình. Trên đời này không có cuộc hôn nhân hoàn mỹ, hạnh phúc chính là thành quả của sự bao dung cấu thành. Cuộc sống thoải mái không phải là cuộc sống đầy đủ nhất, mà là cuộc sống có thể buông bỏ được nhiều nhất. Buông bỏ ham muốn, buông bỏ dục vọng tham lam, buông bỏ so đo với người khác càng nhiều thì hạnh phúc càng nhiều. Suy cho cùng, vàng đầy kho, áo đầy nhà, biệt thự nghìn thước thì cũng ngày cơm ba bữa áo quần hai bộ, tối giường một chiếc mà thôi. Tham lam mọi thứ cũng chỉ là vật ngoài thân nhưng khổ lại ở trong lòng. Sống trong ánh mắt của người khác cũng chính là phó mặc cuộc đời cho người khác quản, đó đâu còn là chính mình nữa. Mong cầu người khác hiểu mình không bằng tự mình hiểu được chính mình. Thế gian trăm nghìn biến hóa, lòng người cũng như gió thổi thuyền đưa, sớm chiều thay đổi cũng là điều dễ gặp. Vậy nên đâu là ý nghĩa cuộc đời, đâu là đạo lý nhân sinh? Chúng ta chỉ có thể hạnh phúc khi tìm được cho mình đáp án. Đau khổ của con người thông thường đều bắt nguồn từ những theo đuổi phù hoa của chính mình mà thôi. Khi con người học được cách chấp nhận với hiện tạibuông bỏ dục vọng càng nhiều, thì đau khổ càng ít, hạnh phúc càng nhiều. Kỳ thực, trên đời này không ai có thể khiến chúng ta đau khổ ngoài chính bản thân mình, và cũng không ai có thể mang lại hạnh phúc cho chúng ta ngoài bản thân mình ra. Quá khứ đã qua mà tương lai còn chưa tới, đường đời sau này của mỗi chúng ta, sướng hay khổ, buồn hay vui đều do chính mình quyết định. Học cách chấp nhận với thực tại chính là chìa khóa bước vào cánh cửa hạnh phúc của tương lai.


Minh Vũ

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 136)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 192)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 215)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 282)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 193)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 243)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 280)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 260)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 292)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 372)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 604)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 461)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 479)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 572)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 752)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 830)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 853)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 840)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 731)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 709)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 712)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 812)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 833)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 937)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 714)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 610)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 707)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 823)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 708)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 707)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 822)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 850)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 824)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 863)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 893)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 885)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1077)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 952)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1658)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1066)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1210)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 955)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1211)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1115)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1122)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1277)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1553)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2029)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1094)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1352)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1096)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 946)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1063)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1094)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1532)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1286)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1287)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1022)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1181)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant