Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tổng Quan Về Định Học

03 Tháng Mười Hai 201907:43(Xem: 4264)
Tổng Quan Về Định Học

Tổng Quan Về Định Học 

Thích Trung Định

 
Cầu An

Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ . Nằm ở chi phần thứ hai, định học là kết quả do thực hành giới học đem lại và là nhân của tuệ học. Nhân giới sanh định, nhân định phát tuệ . Trên con đường thực tập tâm linh theo Phật giáo, nếu thiếu chi phần này thì kết quả thực tập sẽ không thà nh tựu trọn vẹn. Bở i mỗ i chi phầ n trong đó sẽ hỗ trợ cho nhau, chú ng nằ m trong mộ t chỉ nh thể thố ng nhấ t, bấ t phân; bao hà m trọ n vẹ n đạ o lộ đi đế n giá c ngộ giả i thoá t. Do vậ y, hà nh giả tu họ c sẽ phả i thự c hà nh trọ n vẹ n về giớ i họ c, về đị nh họ c và về tuệ họ c. Trong kinh Đại Bát Niết-bàn, Đức Phật nói rõ về mố i quan hệ nà y: “Đây là Giới, đây là Định, đây là Tuệ. Định cùng tu với Giới sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu với Định sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm cùng tu với Tuệ sẽ đưa đến giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc, tức là dục lậu, hữu lậu (tri kiến lậu), vô minh lậu”1 .

Ý nghĩa thuật ngữ

Thuật ngữ samādhi được dịch qua tiếng Anh là concentration (thiền định), là yếu tố quan trọng nhất về kỹ thuật thực hành. Nó có gốc saṃ-ā-dhā nghĩa là đặt lại với nhau, tập trung tâm ý, tức đề cập đến một trạng thái của sự nhất tâm hay chuyên chú tâm. Trong một ý nghĩa kỹ thuật, thiền định bao gồm cả trạng thái của tâm và phương pháp thực hành để tạo nên trạng thái đó2 . Tất cả những vấn đề này mặc dù khác nhau về hình thứcsự thể hiện, nhưng nó cũng có trong một ý nghĩa của thiền định đó là sự nhất tâm. Trong bản sớ giải bộ Pháp tụ (Dhammasangani) có tên là Atthasālinī Ngài Phật Âm (Buddhaghosa Thera) định nghĩa về thiền như sau: “Tâm trí tập trung lại một chỗ, gọi là nhất tâm, do đó gọi là thiền định”3 . Với nguyên nghĩa của từ saṃ-ā-dhā là “đưa hoặc đặt lại với nhau”, thuật ngữ này được dùng để chỉ một trạng thái tập trung tinh thần, thường là kết quả của một số kỹ thuật hoặc hành thiền cụ thể.

Từ điển Pāli-English Dictionary của T.W. Rhys Davids và William Stede cũng khẳng định, thuật ngữ Samādhi có gốc là ‘saṃ+ā+dhā’, nghĩa là tập trung, gom lại, thu thập lại, tập trung tâm ý, và thiền định; đồng thời với việc thực hành chánh mạng, là một điều kiện cần thiết để đạt được trí tuệ cao hơn và đạt được giải thoát4 .

Trong Kinh tạng, samādhi được định nghĩa là sự nhất tâm (citta ekagata), định nghĩa này hoàn toàn phù hợp với tính nghiêm ngặt của thuật ngữ tâm lý trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma). Vi Diệu Pháp xem nhất tâm như một tâm sở riêng biệt có mặt trong mọi tâm. Nó là một biến hành tâm sở với nhiệm vụ hợp nhất tâm trên đối tượng của nó, bảo đảm rằng mỗi tâm chỉ nắm bắt một đối tượng duy nhất mà thôi. Khi nhất tâm vượt qua sự ổn định căn bản của tâm trên một đối tượng để đem lại cho tâm một mức độ kiên cố và không tán loạn nào đó thì được xếp dưới danh mục samādhi (định). Có lẽ vì vậy mà bộ Pháp tụ (Dhammasangani) đồng hóa các loại nhất tâm này với một chuỗi các từ đồng nghĩa bao gồm tịnh chỉ (samatha), định căn (samādhindriya), định lực (samādhibala). Từ quan niệm tâm lý nghiêm ngặt này, samādhi (định) có thể hiện diện trong các tâm bất thiện cũng như thiện và vô ký. Trong hình thức bất thiện nó được gọi là “tà định” (micchā-samādhi), trong hình thức thiện gọi là “chánh định” (sammāsamādhi).

Danh từ samādhi tùy theo ngữ cảnh để dịch. Nếu được dùng trong nghĩa chánh định (samma samadhi), một trong tám chi phần của Bát Chánh đạo, thì chữ nầy có liên quan đến các tầng thiền-na, và thường được xem như cùng nghĩa với samatha-bhāvana, dịch là Thiền an chỉ, hay Thiền chỉ (samatha). Nếu được dùng trong nghĩa tam vô lậu học Giới, Định, Tuệ, thì nó có nghĩa là bao gồm ba chi: Chánh tinh tấn (Right eff ort), Chánh niệm (Right mindfulness), Chánh định (Right concentration) của Bát Chánh đạo.

Thuật ngữ samādhi được phiên âm phổ biến theo tiếng Trung Quốc bao gồm những cụm từ như Tammuội, Tam-ma-địa hoặc Tam-ma-đề, cũng như các bản dịch của từ ngữ theo nghĩa đen như định. Bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập thường sử dụng Tam-muội trong khi bản dịch của ngài Huyền Trangxu hướng sử dụng từ Định.

Bên cạnh thuật ngữ thường dùng samādhi, trong từ vựng kỹ thuật về thiền cũng còn sử dụng hai thuật ngữ phổ biến đó là Jhāna (theo Skt là dhyāna) và Bhavana. Luận sư Phật âm đã truy nguyên từ Pāḷi Jhāna (Skt. Dhyāna) đến hai hình thức có gốc động từ. Một là động từ jhāyati với nghĩa tư duy hay tĩnh lự, có nguồn gốc chính xác theo từ nguyên. Ngoài ra, ngài còn đưa thêm một từ phái sanh nữa của jhāna dù hơi có vẻ khôi hài, song với ý định làm sáng tỏ nhiệm vụ của nó hơn là giới thiệu gốc động từ. Từ phái sinh này được theo dấu từ chữ jhāna đến động từ jhāpeti với nghĩa thiêu đốt, lý do là vì nó thiêu đốt các pháp đối nghịch, nên gọi làjhāna. Lời giải thích thứ hai này hàm ý rằng “jhāna thiêu đốt hay thiêu hủy các phiền não”, yếu tố ngăn cản sự phát triển định và tuệ trong tâm5 . Trong ý nghĩa này, nhà bình luận về thiền-na nổi tiếng Ācariya Mahānāma viết rằng: “Những ai đã an trụ vào các tầng thiền na, thì sẽ đốt cháy hết các đam mê dục vọng. Do đó, vị ấy hoàn toàn đoạn trừ hết thảy chúng trong tâm, và đạt được các trạng thái thiền-na, nên, thiền-na được hiểu theo nghĩa là đốt cháy”.

Theo Mahāthera Paravahera Vajirañāṇa, từ jhāna có ý nghĩa rộng hơn từ samādhi. Nó ngụ ý chủ yếu là chiêm nghiệm (contemplation) hay thiền định (meditation), thuật ngữ này sử dụng trong Phật học không chỉ mang ý nghĩa phát triển tinh thần rộng lớn mà còn là quá trình chuyển đổi các trạng thái ý thức thấp hơn sang các trạng thái cao hơn, từ các tầng thiền Sắc giới đến Vô sắc giới, rồi từ Vô sở hữu xứ đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ, và cuối cùng đạt đến đỉnh cao trong sự tiến bộ đời sống tâm linh. Theo cách sử dụng có tính kinh điển mang tính luận giải thì từ jhāna có hai ý nghĩa có thể. Một mặt, nó có nghĩa là quán chiếu đến một đối tượng nhất định, hoặc quán sát một cách chặt chẽ về đặc điểm của các sự vật hiện tượng. Mặt khác, nó có nghĩa là loại bỏ những triền cái hoặc những tâm ý bất thiện làm chướng ngại thánh đạo. Trong cách sử dụng thứ hai, từ jhāna được giải thích bởi các nhà bình luận Phật giáo với động từ jhāpeti, (đốt). Tuy nhiên, ngày nay, từ jhāna được chấp nhận rộng rãi hơn theo nghĩa cũ, nghĩa là thiền định, và cả thuật ngữ Pāli là jhāna tương đương của tiếng Phạn, dhyāna, được sử dụng để biểu thị trong hệ thống thiền định Phật giáo6 .

Từ jhāna có liên quan chặt chẽ với từ samādhi với nghĩa thông thường là tập trung tâm ý. Samādhi xuất phát từ gốc nguyên thủy sam +ā +dhā, nghĩa là thu thập hay tập hợp lại, do đó đề xuất tập trung hay thống nhất tâm. Do đó Samādhi được miêu tả ngắn gọn như các trạng thái ly các dục và các bất thiện pháp, tâm ý trở nên lành mạnh7 .

Thuật ngữ tiếng Phạn thường hay nhắc đến nhất khi nói đến thiền là dhyana, thuật ngữ này được người Trung Quốc thời sơ khai phiên âm là thiền-na và người Nhật gọi là thiền Zen. Theo Matsumoto, các thuật ngữ dhyana và samahita (nhập định hay nhập tam-ma-địa) đã xuất hiện trong các văn bản thuộc văn hệ Upanishads trước khi Phật giáo sử dụng. Đây là trạng thái thiền định khi Đức Phật còn là Thái tử, trong một buổi lễ hạ điền cùng vua cha và các thân tộc dòng họ Thích-ca, Thái tử Tất-đạt-đa ngồi dưới gốc cây Hồng táo, tâm bắt đầu ly dục, ly các bất thiện pháp, chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Sau này dưới cây Bồđề tại Bodhgaya, Đức Phật nhớ lại trạng thái thiền này và thực hiện cho đến khi đạt được giác ngộ.

Trong ý nghĩa hẹp, dhyana được sử dụng thường xuyên để đề cập cụ thể đến các cấp độ khác nhau từ Sơ thiền đến Tứ thiềnTứ không định. Một bậc thiền có một trạng thái tâm tương ứng. Trong một ý nghĩa rộng lớn hơn này, thiền được nói là bao gồm cả thiền chỉ (samatha) và thiền quán (vipassana), tức pháp thiền làm an chỉ tâm, chuyên chủ tâm và pháp thiền kia là thực tập quán chiếu sâu vào hoặc nhận định về bản chất của sự tồn tại8 .

Thuật ngữ bhāvana cũng được dịch là thiền định. Danh từ này có nguồn gốc từ ngữ căn bhii. Có thể dịch chữ bhāvana là tu thiền, tu tâm, luyện tâm, lọc tâm, dưỡng tâm. Theo ngài Phật Âm, nó xuất phát từ ngữ căn bhā, có nghĩa là được hay để trở thành nhằm hỗ trợ yêu cầu của mình mà bhāvana có thể được hiểu như là một sự tiến triển, phát triển tâm linh, sự tu tâm, luyện tâm.

Trong Phật giáo, bhavana có thể nói đến bất kỳ hình thức tu tập, thực tập dhyani. Gần đây, ngài Walpola Rahula đã lập luận rằng thiền Phật giáo phải được hiểu theo nghĩa bhavana rộng hơn là dhyana. Theo ngài, thiền định là một danh từ chưa lột tả được nguyên ngữ bhāvanā, có nghĩa sự đào luyện tâm linh. Bhāvanā trong Phật giáo nói đúng ra là một sự đào luyện tâm linh trong ý nghĩa toàn vẹn nhất về mặt ngữ nghĩa của danh từ. Nó nhằm mục đích tẩy sạch tâm tưởng hết những ô nhiễm, những thứ làm tâm dao động như ý tưởng về dâm dục, sân hận, ác độc, biếng nhác, phiền não, bất an, hoài nghi; và đào luyện những đức tính như tập trung, chú ý, thông minh, ý chí, nghị lực, khả năng phân tích, niềm tin, hoan hỷ, an tịnh, để cuối cùng đưa đến trí tuệ cao cả thấy rõ thật chất của mọi sự vật, và thật chứng chân lý tối hậu, Niết-bàn.

Nghiên cứu từ điển Phật học Trung Hoa cho thấy thiền là phiên âm của dhyana, trong khi định là một giải thích của samādhi. Thiền là một yếu tố trong định, hoặc samādhi, trong đó bao gồm cả nền tảng của thiền định là tập trung, trừu tượng, đạt đến mức cuối cùngvượt qua cảm xúc hay suy nghĩ; do đó mà hai từ thiền định được sử dụng chặt chẽ với nhau. Tiến sĩ Muller, một học giả Phật giáo Bắc tông, tác giả quyển Tự điển Thuật ngữ Phật học Đông Á (Dictionary of East Asian Buddhist Terms), cũng cùng quan điểm như vậy, Thiền Định là tiếng ghép đôi, từ việc phiên âm chữ Phạn là Thiền và ý nghĩa theo chữ Hán là Định, có nghĩa là quay nhìn vào bên trong, với trạng thái tĩnh lặng.

Như vậy, chúng ta nên dùng trong ý nghĩa trọn vẹn nhất đó là thiền định, nó bao gồm cả Samādhi và dhyana và bhavana để nói đến thiền định Phật giáo; như vậy mới bao hàm toàn bộ ý nghĩa của Thiền định được mô tả trong Kinh tạ ng.

Ý nghĩa về thiền định

Tóm lại, thiền định có nghĩa là tư duy hay tĩnh-lự, là chuyên chú tâm vào một đối tượng duy nhất để đạt được trạng thái nhất tâm. Thiền định được chỉ định trong giai đoạn thứ hai của Con đường Thanh tịnh, bao gồm nghĩa đennghĩa bóng. Nghĩa đen, nó có nghĩa là cố định vững chắc, do đó chúng ta có thể định nghĩa theo nghĩa hẹp nhất và độc nhất của nó về cơ bản là tập trung tâm ý lành mạnh vào một đối tượng duy nhất. Và theo nghĩa rộng nhất của nó theo truyền thống bao gồm: chánh niệm; sự mãn nguyện; sự giải thoát khỏi những triền cái; bài tập sơ bộ cho sự phát triển của nhất tâm; sự chuyên chú, nhất tâm; các trạng thái thiền từ Sơ thiền đến Tứ thiền, đến Tứ không định.

Bộ Pháp tụ thuộc tạng A-tỳ-đạt-ma định nghĩa sự nhất tâm như sau: “Tính ổn định, tính vững chắc, và sự kiên định của trí tuệ, sự vắng mặt của tâm tán loạn và phân tâm, tâm chuyên chú, sự an tịnh, định lựcchú tâm, và cuối cùngchánh định”.

Thanh tịnh đạo luận định nghĩa: “Định với nghĩa là tập trung. Tập trung là gì? Đó là sự xoay quanh của tâm và tâm sở một cách đều đặn, chánh đáng vào một đối tượng duy nhất. Bởi vậy, đấy là trạng thái nhờ đó tâm và tâm sở ở trong tình trạng quân bình, chánh đáng, và đặt hết vào một đối tượng duy nhất, không phân tán hay xao lãng. Đặc tính của Định là không phân tán. Bản chất hay nhiệm vụ của nó là loại trừ phân tán. Tướng của nó là không tán loạn, nhân gần của nó là lạc, do câu “nhờ lạc, tâm vị ấy được định”9 .

Phật giáo Nguyên thủy định nghĩa thiền định hay thiền chỉmục đích chế ngự năm chướng ngại của định gọi là năm triền cái và làm cho tâm an trú, thuộc ba chi phần định trong Bát Thánh đạo tương ứng với ba mức độ định khác nhau:

a) Chánh tinh tấn: An trú nhờ cố gắng giữ nhất tâm trên đối tượng sơ tướng10 và thô tướng11. An trú này gọi là chuẩn bị định.

b) Chánh niệm: An trú nhờ duy trì nhất tâm trên đối tượng quang tướng12. An trú này gọi là cận hành định hay tịnh thuộc dục giới định.

c) Chánh định: An trú nhờ nhất tâm bất động trên đối tượng quang tướng. An trú này được gọi là an chỉ định hay định sắc giớiđịnh vô sắc giới.

Kinh A-ma-trú (bản kinh số 3, Ambaṭṭha sutta, thuộc Trường bộ) giới thiệu các vấn đề tương ứngGiới Định và Tuệ; theo đó Định sẽ bao gồm (a) Phòng hộ sáu giác quan, (b) Chánh niệm, (c) sự thỏa mãn, (d) sự giải phóng khỏi năm triền cái, (e) bốn tầng thiền.

Thành tựu bốn tầng thiền được Đức Phật gọi đó là chánh định: “Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh định? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sinh, có tầm có tứ. Làm cho tịnh chỉ tầm và tứ, chứng và trú thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sinh, không tầm không tứ, nội tĩnh, nhất tâm. Vị ấy ly hỷ trú xả, niệm, tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú thiền thứ ba. Xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Đây gọi là chánh định”.

Pháp bảo đàn kinh định nghĩa Tọa Thiền là : “Bên ngoài đối với tất cả cảnh giới thiện ác tâm niệm chẳng khởi gọi là tọa, bên trong thấy tự tánh chẳng động gọi là thiền. Ngoài lìa tướng tức Thiền, trong chẳng loạn tức Định, ngoại Thiền nội Định gọi là thiền định. Ngoài lìa tướng nghĩa là khi thấy tướng nhưng không dính mắc vào tướng, tức là khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần tâm không dính mắc, hay rong ruổi chạy theo tìm kiếm. Bên trong tự tánh chẳng động, tức nội tâm an trú, vắng bặt các tạp niệm, do vậy tâm chuyên nhất, đó là định”.

Ngài Khương Tăng Hội trong bài tựa kinh An ban thủ ý định nghĩa Thiền là loại trừ và đốt cháy. Loại trừ và đốt cháy ở đây là loại trừ những cấu uế trong tâm, những phiền não, tập khí và nội kết trong tâm. Thiền là làm cho tâm ngay thẳng lại, làm cho ý chuyên nhất lại. Tập hợp tất cả những điều lành. Dùng những điều lành ấy để loại trừ những uế ác còn dính mắc trong tâm. Uế ác đó là năm sự ngăn che, gọi là Ngũ triền cái, đó là Tham dục, Sân hận, Thùy miên, Trạo hốiNghi ngờ.

Như vậy, có thể nói định học là mộ t phạ m trù rộ ng lớ n trên con đườ ng thự c tậ p tâm linh trong Phậ t giá o. Thiề n đị nh đượ c xem là trá i tim củ a Phậ t giá o, vì nế u không có thự c tậ p thiề n đị nh thì sẽ không đạ t đượ c mụ c tiêu cuố i cù ng đó là trí tuệ vô lậ u giả i thoá t. Ngà y nay, khi Phậ t giá o phá t triể n rộ ng lớ n, cá c trườ ng phá i thiề n đượ c phá t triể n. Thiề n chỉ , thiề n quá n, thiề n Tứ niệ m xứ , thiề n quá n niệ m hơi thở và thiề n từ bi đượ c á p dụ ng thự c tậ p rộ ng rã i. Trong đó , thiề n chá nh niệ m đã trở thà nh mộ t dò ng thiề n thiế t yế u trong xu hướ ng thờ i hiệ n đạ i. Thiề n đị nh giú p giả i quyết nhiều vấ n đề cấ p thiế t như: giả m stress, buông thư, an trú và tị nh lạ c, giú p tá i cấ u trú c và thiết lập cơ chế tâm, mang lại an lạc giải thoát trong đời sống.

 

Ghi chú :
1. Kinh Đại Bát Niết-bàn; Trường bộ kinh; Hòa thượng Thích Minh Châu dịch.
2&3. Mahāthera Paravahera Vajirañāṇa; Buddhist Meditation in Theory and Practice; Colombo; MD. Gunasena & Co. Ltd., 1962.
4. T.W. Rhys Davids & W. Stede (ed.), Pali-English Dictionary; Munshhiram Manoharlal; New Delhi; 2001.
5. Henepola Gunaratana; A Critical Analysis of the Jhanas in Theravāda Buddhist Meditation; The American University; Washington; 1980.
6. Original author, Paravahera Vajirañāza Mahā Thera; new edition revised and edited by Allan R. Bomhard; Buddhist Meditation In Theory and Practice, A General Exposition According to the Pāli Canon of the Theravādin School; Charleston Buddhist Fellowship; 2010 (2554).
7. Harcharn Singh Sobti; Vipassanā The Buddhist way; EBL Delhi; 2003.
8. Peter N. Gregory; Traditions of Meditation in Chinese Buddhism; University of Hawaii Press; 1986.
9. Thích nữ Trí Hải (dịch) Thanh tịnh đạo luận; chùa Pháp Vân ấn hành.
10. Sơ tướng: là hiện vật được tạo ra hay có sẵn trong thiên nhiên được hành giả dùng làm đối tượng thiền định. Ví dụ như một hình tròn màu xanh (được tạo ra) hay ngọn lá xanh (thiên nhiên) mà hành giả dùng để tập chú với mục đích định tâm.
11. Thô tướng: sau khi tập chú tâm với tưởng đủ mạnh để sao chép sơ tướng thành hình ảnh tương tự bên trong gọi là thô tướng hay tợ tướng, bấy giờ hành giả tạm thời bỏ sơ tướng bên ngoài để tập chú vào thô tướng bên trong.
12. Quang tướng: nếu chú tâm trên thô tướng đúng mức tướng này sẽ phát ra ánh sáng nên được gọi là quang tướng. Quang tướng là sắc do tưởng sinh, vì vậy, thiền lấy sắc tưởng này làm đối tượng để đạt được an chỉ định được gọi là thiền sắc giới hay thiền hữu sắc.

Thích Trung Định
Văn Hóa Phật Giáo số 332 ngày 1-11-2019
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1619)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1740)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1305)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 997)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1304)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 1791)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1356)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1458)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1287)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2586)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1279)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1305)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1586)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1565)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1529)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1364)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2511)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1512)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1499)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1282)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1332)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1497)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1452)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1334)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1304)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1415)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2067)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1443)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1409)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1505)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1747)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1427)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1290)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1566)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1307)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1601)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2208)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1374)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1850)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1576)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1665)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1518)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1856)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1566)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1354)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1630)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1485)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1449)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1242)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1166)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1208)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1433)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1544)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1516)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 957)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1405)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1416)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1554)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1798)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1404)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant