Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tổng Quan Về Định Học

03 Tháng Mười Hai 201907:43(Xem: 4365)
Tổng Quan Về Định Học

Tổng Quan Về Định Học 

Thích Trung Định

 
Cầu An

Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ . Nằm ở chi phần thứ hai, định học là kết quả do thực hành giới học đem lại và là nhân của tuệ học. Nhân giới sanh định, nhân định phát tuệ . Trên con đường thực tập tâm linh theo Phật giáo, nếu thiếu chi phần này thì kết quả thực tập sẽ không thà nh tựu trọn vẹn. Bở i mỗ i chi phầ n trong đó sẽ hỗ trợ cho nhau, chú ng nằ m trong mộ t chỉ nh thể thố ng nhấ t, bấ t phân; bao hà m trọ n vẹ n đạ o lộ đi đế n giá c ngộ giả i thoá t. Do vậ y, hà nh giả tu họ c sẽ phả i thự c hà nh trọ n vẹ n về giớ i họ c, về đị nh họ c và về tuệ họ c. Trong kinh Đại Bát Niết-bàn, Đức Phật nói rõ về mố i quan hệ nà y: “Đây là Giới, đây là Định, đây là Tuệ. Định cùng tu với Giới sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu với Định sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm cùng tu với Tuệ sẽ đưa đến giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc, tức là dục lậu, hữu lậu (tri kiến lậu), vô minh lậu”1 .

Ý nghĩa thuật ngữ

Thuật ngữ samādhi được dịch qua tiếng Anh là concentration (thiền định), là yếu tố quan trọng nhất về kỹ thuật thực hành. Nó có gốc saṃ-ā-dhā nghĩa là đặt lại với nhau, tập trung tâm ý, tức đề cập đến một trạng thái của sự nhất tâm hay chuyên chú tâm. Trong một ý nghĩa kỹ thuật, thiền định bao gồm cả trạng thái của tâm và phương pháp thực hành để tạo nên trạng thái đó2 . Tất cả những vấn đề này mặc dù khác nhau về hình thứcsự thể hiện, nhưng nó cũng có trong một ý nghĩa của thiền định đó là sự nhất tâm. Trong bản sớ giải bộ Pháp tụ (Dhammasangani) có tên là Atthasālinī Ngài Phật Âm (Buddhaghosa Thera) định nghĩa về thiền như sau: “Tâm trí tập trung lại một chỗ, gọi là nhất tâm, do đó gọi là thiền định”3 . Với nguyên nghĩa của từ saṃ-ā-dhā là “đưa hoặc đặt lại với nhau”, thuật ngữ này được dùng để chỉ một trạng thái tập trung tinh thần, thường là kết quả của một số kỹ thuật hoặc hành thiền cụ thể.

Từ điển Pāli-English Dictionary của T.W. Rhys Davids và William Stede cũng khẳng định, thuật ngữ Samādhi có gốc là ‘saṃ+ā+dhā’, nghĩa là tập trung, gom lại, thu thập lại, tập trung tâm ý, và thiền định; đồng thời với việc thực hành chánh mạng, là một điều kiện cần thiết để đạt được trí tuệ cao hơn và đạt được giải thoát4 .

Trong Kinh tạng, samādhi được định nghĩa là sự nhất tâm (citta ekagata), định nghĩa này hoàn toàn phù hợp với tính nghiêm ngặt của thuật ngữ tâm lý trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma). Vi Diệu Pháp xem nhất tâm như một tâm sở riêng biệt có mặt trong mọi tâm. Nó là một biến hành tâm sở với nhiệm vụ hợp nhất tâm trên đối tượng của nó, bảo đảm rằng mỗi tâm chỉ nắm bắt một đối tượng duy nhất mà thôi. Khi nhất tâm vượt qua sự ổn định căn bản của tâm trên một đối tượng để đem lại cho tâm một mức độ kiên cố và không tán loạn nào đó thì được xếp dưới danh mục samādhi (định). Có lẽ vì vậy mà bộ Pháp tụ (Dhammasangani) đồng hóa các loại nhất tâm này với một chuỗi các từ đồng nghĩa bao gồm tịnh chỉ (samatha), định căn (samādhindriya), định lực (samādhibala). Từ quan niệm tâm lý nghiêm ngặt này, samādhi (định) có thể hiện diện trong các tâm bất thiện cũng như thiện và vô ký. Trong hình thức bất thiện nó được gọi là “tà định” (micchā-samādhi), trong hình thức thiện gọi là “chánh định” (sammāsamādhi).

Danh từ samādhi tùy theo ngữ cảnh để dịch. Nếu được dùng trong nghĩa chánh định (samma samadhi), một trong tám chi phần của Bát Chánh đạo, thì chữ nầy có liên quan đến các tầng thiền-na, và thường được xem như cùng nghĩa với samatha-bhāvana, dịch là Thiền an chỉ, hay Thiền chỉ (samatha). Nếu được dùng trong nghĩa tam vô lậu học Giới, Định, Tuệ, thì nó có nghĩa là bao gồm ba chi: Chánh tinh tấn (Right eff ort), Chánh niệm (Right mindfulness), Chánh định (Right concentration) của Bát Chánh đạo.

Thuật ngữ samādhi được phiên âm phổ biến theo tiếng Trung Quốc bao gồm những cụm từ như Tammuội, Tam-ma-địa hoặc Tam-ma-đề, cũng như các bản dịch của từ ngữ theo nghĩa đen như định. Bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập thường sử dụng Tam-muội trong khi bản dịch của ngài Huyền Trangxu hướng sử dụng từ Định.

Bên cạnh thuật ngữ thường dùng samādhi, trong từ vựng kỹ thuật về thiền cũng còn sử dụng hai thuật ngữ phổ biến đó là Jhāna (theo Skt là dhyāna) và Bhavana. Luận sư Phật âm đã truy nguyên từ Pāḷi Jhāna (Skt. Dhyāna) đến hai hình thức có gốc động từ. Một là động từ jhāyati với nghĩa tư duy hay tĩnh lự, có nguồn gốc chính xác theo từ nguyên. Ngoài ra, ngài còn đưa thêm một từ phái sanh nữa của jhāna dù hơi có vẻ khôi hài, song với ý định làm sáng tỏ nhiệm vụ của nó hơn là giới thiệu gốc động từ. Từ phái sinh này được theo dấu từ chữ jhāna đến động từ jhāpeti với nghĩa thiêu đốt, lý do là vì nó thiêu đốt các pháp đối nghịch, nên gọi làjhāna. Lời giải thích thứ hai này hàm ý rằng “jhāna thiêu đốt hay thiêu hủy các phiền não”, yếu tố ngăn cản sự phát triển định và tuệ trong tâm5 . Trong ý nghĩa này, nhà bình luận về thiền-na nổi tiếng Ācariya Mahānāma viết rằng: “Những ai đã an trụ vào các tầng thiền na, thì sẽ đốt cháy hết các đam mê dục vọng. Do đó, vị ấy hoàn toàn đoạn trừ hết thảy chúng trong tâm, và đạt được các trạng thái thiền-na, nên, thiền-na được hiểu theo nghĩa là đốt cháy”.

Theo Mahāthera Paravahera Vajirañāṇa, từ jhāna có ý nghĩa rộng hơn từ samādhi. Nó ngụ ý chủ yếu là chiêm nghiệm (contemplation) hay thiền định (meditation), thuật ngữ này sử dụng trong Phật học không chỉ mang ý nghĩa phát triển tinh thần rộng lớn mà còn là quá trình chuyển đổi các trạng thái ý thức thấp hơn sang các trạng thái cao hơn, từ các tầng thiền Sắc giới đến Vô sắc giới, rồi từ Vô sở hữu xứ đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ, và cuối cùng đạt đến đỉnh cao trong sự tiến bộ đời sống tâm linh. Theo cách sử dụng có tính kinh điển mang tính luận giải thì từ jhāna có hai ý nghĩa có thể. Một mặt, nó có nghĩa là quán chiếu đến một đối tượng nhất định, hoặc quán sát một cách chặt chẽ về đặc điểm của các sự vật hiện tượng. Mặt khác, nó có nghĩa là loại bỏ những triền cái hoặc những tâm ý bất thiện làm chướng ngại thánh đạo. Trong cách sử dụng thứ hai, từ jhāna được giải thích bởi các nhà bình luận Phật giáo với động từ jhāpeti, (đốt). Tuy nhiên, ngày nay, từ jhāna được chấp nhận rộng rãi hơn theo nghĩa cũ, nghĩa là thiền định, và cả thuật ngữ Pāli là jhāna tương đương của tiếng Phạn, dhyāna, được sử dụng để biểu thị trong hệ thống thiền định Phật giáo6 .

Từ jhāna có liên quan chặt chẽ với từ samādhi với nghĩa thông thường là tập trung tâm ý. Samādhi xuất phát từ gốc nguyên thủy sam +ā +dhā, nghĩa là thu thập hay tập hợp lại, do đó đề xuất tập trung hay thống nhất tâm. Do đó Samādhi được miêu tả ngắn gọn như các trạng thái ly các dục và các bất thiện pháp, tâm ý trở nên lành mạnh7 .

Thuật ngữ tiếng Phạn thường hay nhắc đến nhất khi nói đến thiền là dhyana, thuật ngữ này được người Trung Quốc thời sơ khai phiên âm là thiền-na và người Nhật gọi là thiền Zen. Theo Matsumoto, các thuật ngữ dhyana và samahita (nhập định hay nhập tam-ma-địa) đã xuất hiện trong các văn bản thuộc văn hệ Upanishads trước khi Phật giáo sử dụng. Đây là trạng thái thiền định khi Đức Phật còn là Thái tử, trong một buổi lễ hạ điền cùng vua cha và các thân tộc dòng họ Thích-ca, Thái tử Tất-đạt-đa ngồi dưới gốc cây Hồng táo, tâm bắt đầu ly dục, ly các bất thiện pháp, chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Sau này dưới cây Bồđề tại Bodhgaya, Đức Phật nhớ lại trạng thái thiền này và thực hiện cho đến khi đạt được giác ngộ.

Trong ý nghĩa hẹp, dhyana được sử dụng thường xuyên để đề cập cụ thể đến các cấp độ khác nhau từ Sơ thiền đến Tứ thiềnTứ không định. Một bậc thiền có một trạng thái tâm tương ứng. Trong một ý nghĩa rộng lớn hơn này, thiền được nói là bao gồm cả thiền chỉ (samatha) và thiền quán (vipassana), tức pháp thiền làm an chỉ tâm, chuyên chủ tâm và pháp thiền kia là thực tập quán chiếu sâu vào hoặc nhận định về bản chất của sự tồn tại8 .

Thuật ngữ bhāvana cũng được dịch là thiền định. Danh từ này có nguồn gốc từ ngữ căn bhii. Có thể dịch chữ bhāvana là tu thiền, tu tâm, luyện tâm, lọc tâm, dưỡng tâm. Theo ngài Phật Âm, nó xuất phát từ ngữ căn bhā, có nghĩa là được hay để trở thành nhằm hỗ trợ yêu cầu của mình mà bhāvana có thể được hiểu như là một sự tiến triển, phát triển tâm linh, sự tu tâm, luyện tâm.

Trong Phật giáo, bhavana có thể nói đến bất kỳ hình thức tu tập, thực tập dhyani. Gần đây, ngài Walpola Rahula đã lập luận rằng thiền Phật giáo phải được hiểu theo nghĩa bhavana rộng hơn là dhyana. Theo ngài, thiền định là một danh từ chưa lột tả được nguyên ngữ bhāvanā, có nghĩa sự đào luyện tâm linh. Bhāvanā trong Phật giáo nói đúng ra là một sự đào luyện tâm linh trong ý nghĩa toàn vẹn nhất về mặt ngữ nghĩa của danh từ. Nó nhằm mục đích tẩy sạch tâm tưởng hết những ô nhiễm, những thứ làm tâm dao động như ý tưởng về dâm dục, sân hận, ác độc, biếng nhác, phiền não, bất an, hoài nghi; và đào luyện những đức tính như tập trung, chú ý, thông minh, ý chí, nghị lực, khả năng phân tích, niềm tin, hoan hỷ, an tịnh, để cuối cùng đưa đến trí tuệ cao cả thấy rõ thật chất của mọi sự vật, và thật chứng chân lý tối hậu, Niết-bàn.

Nghiên cứu từ điển Phật học Trung Hoa cho thấy thiền là phiên âm của dhyana, trong khi định là một giải thích của samādhi. Thiền là một yếu tố trong định, hoặc samādhi, trong đó bao gồm cả nền tảng của thiền định là tập trung, trừu tượng, đạt đến mức cuối cùngvượt qua cảm xúc hay suy nghĩ; do đó mà hai từ thiền định được sử dụng chặt chẽ với nhau. Tiến sĩ Muller, một học giả Phật giáo Bắc tông, tác giả quyển Tự điển Thuật ngữ Phật học Đông Á (Dictionary of East Asian Buddhist Terms), cũng cùng quan điểm như vậy, Thiền Định là tiếng ghép đôi, từ việc phiên âm chữ Phạn là Thiền và ý nghĩa theo chữ Hán là Định, có nghĩa là quay nhìn vào bên trong, với trạng thái tĩnh lặng.

Như vậy, chúng ta nên dùng trong ý nghĩa trọn vẹn nhất đó là thiền định, nó bao gồm cả Samādhi và dhyana và bhavana để nói đến thiền định Phật giáo; như vậy mới bao hàm toàn bộ ý nghĩa của Thiền định được mô tả trong Kinh tạ ng.

Ý nghĩa về thiền định

Tóm lại, thiền định có nghĩa là tư duy hay tĩnh-lự, là chuyên chú tâm vào một đối tượng duy nhất để đạt được trạng thái nhất tâm. Thiền định được chỉ định trong giai đoạn thứ hai của Con đường Thanh tịnh, bao gồm nghĩa đennghĩa bóng. Nghĩa đen, nó có nghĩa là cố định vững chắc, do đó chúng ta có thể định nghĩa theo nghĩa hẹp nhất và độc nhất của nó về cơ bản là tập trung tâm ý lành mạnh vào một đối tượng duy nhất. Và theo nghĩa rộng nhất của nó theo truyền thống bao gồm: chánh niệm; sự mãn nguyện; sự giải thoát khỏi những triền cái; bài tập sơ bộ cho sự phát triển của nhất tâm; sự chuyên chú, nhất tâm; các trạng thái thiền từ Sơ thiền đến Tứ thiền, đến Tứ không định.

Bộ Pháp tụ thuộc tạng A-tỳ-đạt-ma định nghĩa sự nhất tâm như sau: “Tính ổn định, tính vững chắc, và sự kiên định của trí tuệ, sự vắng mặt của tâm tán loạn và phân tâm, tâm chuyên chú, sự an tịnh, định lựcchú tâm, và cuối cùngchánh định”.

Thanh tịnh đạo luận định nghĩa: “Định với nghĩa là tập trung. Tập trung là gì? Đó là sự xoay quanh của tâm và tâm sở một cách đều đặn, chánh đáng vào một đối tượng duy nhất. Bởi vậy, đấy là trạng thái nhờ đó tâm và tâm sở ở trong tình trạng quân bình, chánh đáng, và đặt hết vào một đối tượng duy nhất, không phân tán hay xao lãng. Đặc tính của Định là không phân tán. Bản chất hay nhiệm vụ của nó là loại trừ phân tán. Tướng của nó là không tán loạn, nhân gần của nó là lạc, do câu “nhờ lạc, tâm vị ấy được định”9 .

Phật giáo Nguyên thủy định nghĩa thiền định hay thiền chỉmục đích chế ngự năm chướng ngại của định gọi là năm triền cái và làm cho tâm an trú, thuộc ba chi phần định trong Bát Thánh đạo tương ứng với ba mức độ định khác nhau:

a) Chánh tinh tấn: An trú nhờ cố gắng giữ nhất tâm trên đối tượng sơ tướng10 và thô tướng11. An trú này gọi là chuẩn bị định.

b) Chánh niệm: An trú nhờ duy trì nhất tâm trên đối tượng quang tướng12. An trú này gọi là cận hành định hay tịnh thuộc dục giới định.

c) Chánh định: An trú nhờ nhất tâm bất động trên đối tượng quang tướng. An trú này được gọi là an chỉ định hay định sắc giớiđịnh vô sắc giới.

Kinh A-ma-trú (bản kinh số 3, Ambaṭṭha sutta, thuộc Trường bộ) giới thiệu các vấn đề tương ứngGiới Định và Tuệ; theo đó Định sẽ bao gồm (a) Phòng hộ sáu giác quan, (b) Chánh niệm, (c) sự thỏa mãn, (d) sự giải phóng khỏi năm triền cái, (e) bốn tầng thiền.

Thành tựu bốn tầng thiền được Đức Phật gọi đó là chánh định: “Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh định? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sinh, có tầm có tứ. Làm cho tịnh chỉ tầm và tứ, chứng và trú thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sinh, không tầm không tứ, nội tĩnh, nhất tâm. Vị ấy ly hỷ trú xả, niệm, tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú thiền thứ ba. Xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Đây gọi là chánh định”.

Pháp bảo đàn kinh định nghĩa Tọa Thiền là : “Bên ngoài đối với tất cả cảnh giới thiện ác tâm niệm chẳng khởi gọi là tọa, bên trong thấy tự tánh chẳng động gọi là thiền. Ngoài lìa tướng tức Thiền, trong chẳng loạn tức Định, ngoại Thiền nội Định gọi là thiền định. Ngoài lìa tướng nghĩa là khi thấy tướng nhưng không dính mắc vào tướng, tức là khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần tâm không dính mắc, hay rong ruổi chạy theo tìm kiếm. Bên trong tự tánh chẳng động, tức nội tâm an trú, vắng bặt các tạp niệm, do vậy tâm chuyên nhất, đó là định”.

Ngài Khương Tăng Hội trong bài tựa kinh An ban thủ ý định nghĩa Thiền là loại trừ và đốt cháy. Loại trừ và đốt cháy ở đây là loại trừ những cấu uế trong tâm, những phiền não, tập khí và nội kết trong tâm. Thiền là làm cho tâm ngay thẳng lại, làm cho ý chuyên nhất lại. Tập hợp tất cả những điều lành. Dùng những điều lành ấy để loại trừ những uế ác còn dính mắc trong tâm. Uế ác đó là năm sự ngăn che, gọi là Ngũ triền cái, đó là Tham dục, Sân hận, Thùy miên, Trạo hốiNghi ngờ.

Như vậy, có thể nói định học là mộ t phạ m trù rộ ng lớ n trên con đườ ng thự c tậ p tâm linh trong Phậ t giá o. Thiề n đị nh đượ c xem là trá i tim củ a Phậ t giá o, vì nế u không có thự c tậ p thiề n đị nh thì sẽ không đạ t đượ c mụ c tiêu cuố i cù ng đó là trí tuệ vô lậ u giả i thoá t. Ngà y nay, khi Phậ t giá o phá t triể n rộ ng lớ n, cá c trườ ng phá i thiề n đượ c phá t triể n. Thiề n chỉ , thiề n quá n, thiề n Tứ niệ m xứ , thiề n quá n niệ m hơi thở và thiề n từ bi đượ c á p dụ ng thự c tậ p rộ ng rã i. Trong đó , thiề n chá nh niệ m đã trở thà nh mộ t dò ng thiề n thiế t yế u trong xu hướ ng thờ i hiệ n đạ i. Thiề n đị nh giú p giả i quyết nhiều vấ n đề cấ p thiế t như: giả m stress, buông thư, an trú và tị nh lạ c, giú p tá i cấ u trú c và thiết lập cơ chế tâm, mang lại an lạc giải thoát trong đời sống.

 

Ghi chú :
1. Kinh Đại Bát Niết-bàn; Trường bộ kinh; Hòa thượng Thích Minh Châu dịch.
2&3. Mahāthera Paravahera Vajirañāṇa; Buddhist Meditation in Theory and Practice; Colombo; MD. Gunasena & Co. Ltd., 1962.
4. T.W. Rhys Davids & W. Stede (ed.), Pali-English Dictionary; Munshhiram Manoharlal; New Delhi; 2001.
5. Henepola Gunaratana; A Critical Analysis of the Jhanas in Theravāda Buddhist Meditation; The American University; Washington; 1980.
6. Original author, Paravahera Vajirañāza Mahā Thera; new edition revised and edited by Allan R. Bomhard; Buddhist Meditation In Theory and Practice, A General Exposition According to the Pāli Canon of the Theravādin School; Charleston Buddhist Fellowship; 2010 (2554).
7. Harcharn Singh Sobti; Vipassanā The Buddhist way; EBL Delhi; 2003.
8. Peter N. Gregory; Traditions of Meditation in Chinese Buddhism; University of Hawaii Press; 1986.
9. Thích nữ Trí Hải (dịch) Thanh tịnh đạo luận; chùa Pháp Vân ấn hành.
10. Sơ tướng: là hiện vật được tạo ra hay có sẵn trong thiên nhiên được hành giả dùng làm đối tượng thiền định. Ví dụ như một hình tròn màu xanh (được tạo ra) hay ngọn lá xanh (thiên nhiên) mà hành giả dùng để tập chú với mục đích định tâm.
11. Thô tướng: sau khi tập chú tâm với tưởng đủ mạnh để sao chép sơ tướng thành hình ảnh tương tự bên trong gọi là thô tướng hay tợ tướng, bấy giờ hành giả tạm thời bỏ sơ tướng bên ngoài để tập chú vào thô tướng bên trong.
12. Quang tướng: nếu chú tâm trên thô tướng đúng mức tướng này sẽ phát ra ánh sáng nên được gọi là quang tướng. Quang tướng là sắc do tưởng sinh, vì vậy, thiền lấy sắc tưởng này làm đối tượng để đạt được an chỉ định được gọi là thiền sắc giới hay thiền hữu sắc.

Thích Trung Định
Văn Hóa Phật Giáo số 332 ngày 1-11-2019
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2011)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
(Xem: 3005)
Tôi không cần giải thích tại sao bạn cần phải thực hành Pháp; tôi nghĩ bạn hiểu điều đó.
(Xem: 2624)
Thế giới chúng ta đang sinh sống ắt phải nằm trong “Hoa tạng thế giới”, tức là thế giới Hoa Nghiêm
(Xem: 3526)
Việc thẳng tiến bước trên con đường đạo lý thanh cao hầu đạt đến chân lý hạnh phúc chẳng khác nào bơi ngược dòng đời là một vấn đề...
(Xem: 3353)
Chúng ta thấy một sự vật bằng cách thấy màu sắc của nó và nhờ màu sắc ấy mà phân biệt với những sự vật có màu sắc khác
(Xem: 4191)
Tiếng Sankrit là Drama (tiếng Tạng là: cho) nghĩa là giữ lấy hoặc nâng đỡ. Vậy Pháp nâng đỡ hoặc duy trì cái gì?
(Xem: 3708)
Trong những nhà phiên dịch kinh điểnthời kỳ đầu của Phật giáo Trung Quốc, ngài Đàm-vô-sấm (曇無讖) hiện ra như một nhà phiên kinh trác việt[1].
(Xem: 4259)
Khi chúng ta mới học lần đầu rằng cứu cánh của sự tu tập đạo Phật có tên gọi là Nibbana (Nirvana, Niết-bàn),
(Xem: 2345)
“Đức Phật nói: Như vậy, như vậy, như lời ông nói. Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí, chẳng phải là pháp tạo tác, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp tạo tác.
(Xem: 3495)
Đức Phật cho rằng, bạn phải quan sát hơi thở như nó đang là-yathabhuta. Nếu hơi thở dài, bạn biết nó dài, nếu hơi thở ngắn, bạn biết nó ngắn.
(Xem: 4184)
Tâm là kinh nghiệm cá nhân, chủ quan về “điều gì” luôn luôn thay đổi, từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác.
(Xem: 3962)
“Cánh cửa bất tử đã mở ra cho tất cả những ai muốn nghe”, đây là câu nói của Đức Phật sau khi Ngài giác ngộ.
(Xem: 2894)
Trong các kinh thường ví chân tâm là viên ngọc, như viên ngọc như ý, viên ngọc ma ni, lưới Trời Đế Thích…Bài kệ này chỉ thẳng Viên Ngọc Tâm
(Xem: 3365)
Trong Nguồn thiền, Tổ Khuê Phong Tông Mật nói: “Người ngộ ngã pháp đều không, hiện bày chân lý mà tu là thiền Đại thừa”.
(Xem: 3507)
Trong Kinh Văn Thù quyển hạ có chép: Ngài Văn Thù thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn thì đệ tử của Ngài phân hóa bộ phái như thế nào?
(Xem: 4562)
Vấn đề Nam tôngBắc tông là một vấn đề tương đối rất cũ – cũ đến hơn một ngàn năm trăm năm kể từ ngày con người có được cái hạnh phúc biết đến giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 3896)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”
(Xem: 4785)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 4055)
Mất 11 năm khổ công tầm đạo, Đức Phật Thích Ca đã đạt đại giác ngộ sau 49 ngày quyết tâm thiền định dưới cội cây bồ đề.
(Xem: 3042)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”...
(Xem: 3793)
Một người không có trí nhớ, hoặc mất trí nhớ, cuộc đời người ấy sẽ ra sao?
(Xem: 3938)
Chí đạo vốn ở tâm mình. Tâm pháp vốn ở vô trụ. Tâm thể vô trụ, tánh tướng tịch nhiên, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng sanh chẳng diệt.
(Xem: 3106)
Trước khi nhập Niết-bàn, đức Phậtdi giáo tối hậu cho các chúng đệ tử: “Pháp và Luật mà Ta đã thuyết và qui định, là Đạo Sư của các ngươi sau khi Ta diệt độ.”
(Xem: 3626)
Phật giáo là một tổ chức cộng đồng (Samasambhaga) ra đời sớm nhất trong lịch sử nhân loại (-5 CN).
(Xem: 4463)
Đức Phật, một nhân vật lịch sử 3000 năm về trước, ra đời tại Bắc Ấn, là bậc giác ngộ toàn triệt, là bậc đạo sư với nghi biểu đặc biệt xuất hiện ở đời.
(Xem: 3738)
Con người sanh ra để hưởng thụ qua lục dục như tài, sắc, danh, thực, thùy (Ngủ nghỉ), .v.v. Con người trải qua một chu kỳ già, bệnh và cuối cùng là chết.
(Xem: 2271)
Nguyên bản: Teachings On The Eight Verses On Training The Mind. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma . Anh dịch: Thupten Jinpa. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 2633)
Phật tánh với thành Phật là hai vấn đề khác nhau, không thể đồng nhất được.
(Xem: 3039)
Kinh Tiểu Duyên (Aggaññasutta) trong tiếng Pali có nghĩa là kinh nói về nguyên nhân hay bài giảng về khởi nguyên các pháp.....
(Xem: 2736)
Đức Phật đã dạy về những sự thật này ngay khi ngài đạt đến Giác Ngộ như một phần của những gì được biết như Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất.
(Xem: 4604)
“Thiên đường có lối sao chẳng đi Địa ngục không cửa dấn thân vào”
(Xem: 4936)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 2839)
Kính lễ đạo sư và đấng bảo hộ của chúng con, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát! Sự thông tuệ của ngài chiếu soi như mặt trời, không bị che mờ bởi vọng tưởng hay dấu vết của si mê,
(Xem: 5295)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm
(Xem: 2865)
Trong phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên kinh Đại Bát Niết Bàn, nói về sự nhập Niết bàn của Đức Phật.
(Xem: 3305)
Trong số các vị Tổ sư của Thiền phái Vô Ngôn Thông, Viên Chiếu được xem là vị Thiền sư danh tiếng, lỗi lạc bậc nhất.
(Xem: 4387)
Nguyên tử giải phóng trở thành nguyên tử năng là đánh dấu thời đại đại phát minh của nhân loại. Là họa hay là phước tạm thời không bàn luận đến.
(Xem: 4955)
Luân hồinhân quả là hai sự kiện tương quan. Bởi chúng sanh còn nghiệp trái của nhân quả thiện ác nên mới bị luân hồi.
(Xem: 4718)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 3258)
Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa...
(Xem: 4566)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 4293)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 6156)
Mùa xuân là dịp để trở về, dừng bước chân hoằng hóa để quán chiếu mọi nhân duyên giữa đời.
(Xem: 3518)
Bản Pháp văn mà tôi giới thiệu ở đây, không phải là toàn văn được in trên giấy, mà chỉ là một phần gọn nhẹ và cô đọng, cắt bớt những giới luật khá khắt khe khó tiếp cận với người Tây phương, nên giản dị và dễ đi vào lòng người.
(Xem: 4037)
Trước đây rất lâu từ những năm 1930, người ta đã chất vấn, phê phán rằng những người theo Phật giáo không biết làm giàu.
(Xem: 6025)
Trong không gian mênh mông của vườn kinh điển Đại Thừa, Diệu Pháp Liên Hoa là đoá hoa vi diệu nhất mà chính Đức Thế Tôn đã ca ngợi
(Xem: 5427)
Trong cuộc sống, nếu một người mất đi niềm tin sẽ trở nên vị kỷ, bất cần và gặt hái khổ đau, dễ dàng bị tác động vào những...
(Xem: 4070)
Đức Phật đã dạy: "Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh." Tất cả mọi loài, ai cũng có cái tánh làm Phật. Mình hiểu lời Phật dạy một cách nôn na như vậy.
(Xem: 33142)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 3183)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâmtranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết.
(Xem: 4164)
Phật tánhthực tại tối hậu của chúng sanh và các bậc giác ngộ. Kinh Đại Bát Niết Bàn đã dùng nhiều từ để chỉ Phật tánh này
(Xem: 4743)
Kinh Biệt Giải Thoát Giới - tên gọi khác của Kinh Tư Lượng (Anumāna Sutta) - là bài kinh thứ mười lăm trong Majjhima Nikāya
(Xem: 3102)
Trong suốt hai ngàn năm lịch sử, đạo Phật luôn luôn có mặt trong lòng dân tộc Việt Nam khắp nẻo đường đất nước và gắn bó với dân tộc Việt Nam trong mọi thăng trầm vinh nhục.
(Xem: 3820)
Có nhiều bài kệ rất hay khi xướng lên hay khi tán tụng; hoặc giả khi mạn đàm Phật Pháp; nhưng cũng có lắm bài kệ...
(Xem: 3558)
Từ nhỏ, lúc mới vào chùa khi 15 tuổi của năm 1964 và năm nay 2020 cũng đã trên 70 tuổi đời và hơn 55 năm sống trong Thiền Môn
(Xem: 6561)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 2779)
Vấn đề thế giới địa ngụcvấn đề rất nhiều nghi vấn, những người theo đạo Phật thì tin có thế giới địa ngục, những người không theo đạo Phật thì không tin có thế giới địa ngục và có một hạng người thì nửa tin nửa ngờ.
(Xem: 3237)
Vấn đề tụng niệm một số người không nắm được giá trịnghĩa lý của nó nên có thái độ khinh thường, xem nhẹ, không quan tâm, không chú trọng cho việc làm này...
(Xem: 4596)
Phật tại thế thời ngã trầm luân, Kim đắc nhân thân Phật diệt độ, Áo não tự thân đa nghiệp chướng, Bất kiến Như Lai kim sắc thân.
(Xem: 3466)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant