Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Từ Nền Tảng Bốn Đại Giáo Pháp Trong Kinh Du Hành Nghĩ Về Những Việc Cần Thực Hiện Trong Khi Phiên Dịch Kinh Điển.

16 Tháng Mười Hai 201908:14(Xem: 5790)
Từ Nền Tảng Bốn Đại Giáo Pháp Trong Kinh Du Hành Nghĩ Về Những Việc Cần Thực Hiện Trong Khi Phiên Dịch Kinh Điển.

Từ Nền Tảng Bốn Đại Giáo Pháp Trong Kinh Du Hành Nghĩ Về
Những Việc Cần Thực Hiện Trong Khi Phiên Dịch Kinh Điển.

 
Chúc Phú

hoa sen

Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)[1].

Chúc Phú.

Kể từ khi Đức Phật cho phép các tỳ-kheo được học tập kinh điển bằng ngôn ngữ của đất nước mình, thì đó cũng là lúc hình thành nên những truyền thống kinh điển của từng quốc gia khác nhau trên thế giới.

Ở đây, trong quá trình biến thiên của lịch sử, đã có những truyền thống Phật giáo bị lụi tàn nên cũng đồng thời kéo theo sự mai một về những nền tảng kinh điển quý báu của trường phái ấy. Không những vậy, do nhiều yếu tố tác động khác nhau, kể cả sự tác động có chủ ý của con người, khiến cho nhiều truyền thống kinh điển bị pha trộn nhiều yếu tố phi Phật giáo.

 Với trí tuệ vượt mọi khoảng không gian và cả thời gian, Đức Phật đã nhìn thấy những trăn trở, những khó khăn, những bất đồng, những va chạm… trong quá trình các chúng đệ tử giữ gìn, phiên dịchluận giải về những lời dạy của Ngài. Do vậy, Ngài đã có những lời dạy mang tính định hướng liên quan đển việc giữ gìn, chuyển dịch, truyền thụ kinh điển, thể hiện cụ thể qua Bốn giáo pháp lớn ( 四大教法) trong kinh Du Hành, thuộc Trường A-Hàm.

Kinh ghi:

“Bốn giáo pháp lớn là: Nếu có tỳ-kheo nào nói như vầy: ‘Này chư hiền! Tôi ở thôn kia, thành kia, nước kia, đích thân nghe từ Phật, đích thân thọ lãnh giáo pháp này’. Nghe như thế, chớ nên không tin, chớ nên bài bác, các thầy hãy y cứ vào Kinh để suy nghiệm chỗ đúng sai, y cứ vào Luật, y cứ vào Pháp mà cứu xét tường tận ngọn nguồn. Nếu nhận thấy lời ấy không đúng với Kinh, với Luật, với Pháp thì hãy nói: ‘Phật không dạy như thế, thầy đã nghe lầm rồi! Tại vì sao? Vì tôi đã y cứ vào Kinh, Luật, Pháp, nhận thấy điều thầy nói trái với pháp Phật dạy. Hiền sĩ! Chớ nên thọ trì, chớ dạy cho người và hãy từ bỏ điều đó’. Nếu xét thấy lời ấy đúng với Kinh, với Luật, với Pháp, thì hãy nói với họ: ‘Điều thầy vừa nói đúng với lời Phật dạy. Tại vì sao? Vì tôi căn cứ vào Kinh, vào Luật, vào Pháp, nhận thấytương ưng với pháp Phật dạy. Hiền sĩ! Các thầy nên thọ trì, giảng rộng cho người, cẩn thận chớ bỏ’. Đó là Giáo pháp lớn thứ nhất.

Lại nữa, có tỳ-kheo nói như vầy: ‘Tôi ở tại thôn kia, thành kia, nước kia, ở trong một đại chúng hòa hợp, toàn bậc trưởng thượng đa văn, đích thân nghe các ngài ấy dạy, đích thân lãnh thọ Pháp này, Luật này, Giáo này’. Nghe như thế, chớ nên không tin, chớ nên bài bác; hãy y cứ vào Kinh để suy nghiệm chỗ đúng sai, y cứ vào Luật, y cứ vào Pháp mà cứu xét tường tận ngọn nguồn. Nếu nhận thấy lời ấy không đúng với Kinh, với Luật, với Pháp thì hãy nói: ‘Phật không dạy như thế, ông đã nghe lầm rồi! Tại vì sao? Vì tôi đã y cứ vào Kinh, Luật, Pháp, nhận thấy điều ông nói trái với pháp Phật dạy. Hiền sĩ! Chớ nên thọ trì, chớ dạy cho người và hãy từ bỏ điều đó’. Nếu xét thấy lời ấy đúng với Kinh, với Luật, với Pháp, thì hãy nói với họ: ‘Điều ông vừa nói đúng với lời Phật dạy. Tại vì sao? Vì tôi căn cứ vào Kinh, vào Luật, vào Pháp, nhận thấytương ưng với pháp Phật dạy. Hiền sĩ! Các ông nên thọ trì, giảng rộng cho người, cẩn thận chớ bỏ’. Đây là Giáo pháp lớn thứ hai.

Lại có tỳ-kheo nói như vầy: ‘Tôi ở thôn kia, thành kia, nước kia, ở trong một hội chúng tỳ-kheo trì pháp, trì luật, trì luật nghi, đích thân nghe các vị ấy dạy, đích thân lãnh thọ Pháp này, Luật này, Giáo này’. Nghe như thế, chớ nên không tin, chớ nên bài bác; hãy nên y cứ vào Kinh để suy nghiệm chỗ đúng sai, y cứ vào Luật, y cứ vào Pháp mà cứu xét tường tận ngọn nguồn. Nếu nhận thấy lời ấy không đúng với Kinh, với Luật, với Pháp thì hãy nói: ‘Phật không dạy như thế, ông đã nghe lầm rồi! Tại vì sao? Vì tôi đã y cứ vào Kinh, Luật, Pháp, nhận thấy điều ông nói trái với pháp Phật dạy. Hiền sĩ! Chớ nên thọ trì, chớ dạy cho người và hãy từ bỏ điều đó’. Nếu xét thấy lời ấy đúng với Kinh, với Luật, với Pháp, thì hãy nói với họ: ‘Điều ông vừa nói đúng với lời Phật dạy. Tại vì sao? Vì tôi căn cứ vào Kinh, vào Luật, vào Pháp, nhận thấytương ưng với pháp Phật dạy. Hiền sĩ! Các ông nên thọ trì, giảng rộng cho người, cẩn thận chớ bỏ’. Đó là Giáo pháp lớn thứ ba.

[18a09] Lại có tỳ-kheo nói như vầy: “Tôi ở thôn kia, thành kia, nước kia, đích thân nghe từ một vị tỳ-kheo trì pháp, trì luật, trì luật nghi dạy, đích thân thọ lãnh Pháp này, Luật này, Giáo này’. Nghe như thế, chớ nên không tin, chớ nên bài bác; hãy nên y cứ vào Kinh để suy nghiệm chỗ đúng sai, y cứ vào Luật, y cứ vào Pháp mà cứu xét tường tận ngọn nguồn. Nếu nhận thấy lời ấy không đúng với Kinh, với Luật, với Pháp thì hãy nói: ‘Phật không dạy như thế, ông đã nghe lầm rồi! Tại vì sao? Vì tôi đã y cứ vào Kinh, Luật, Pháp; nhận thấy điều ông nói trái với pháp Phật dạy. Hiền sĩ! Chớ nên thọ trì, chớ dạy cho người và hãy từ bỏ điều đó’. Nếu xét thấy lời ấy đúng với Kinh, với Luật, với Pháp, thì hãy nói với họ: ‘Điều ông vừa nói đúng với lời Phật dạy. Tại vì sao? Vì tôi căn cứ vào Kinh, vào Luật, vào Pháp, nhận thấytương ưng với pháp Phật dạy. Hiền sĩ! Các ông nên thọ trì, giảng rộng cho người, cẩn thận chớ bỏ’. Đây là Giáo pháp lớn thứ tư”[2].

Từ những lời dạy cô động này của Đức Phật, chúng ta có thể khái quát thành những điểm cơ bản như sau:

Trước hết, Bốn đại giáo pháp này đề cập đến vai trò quan trọng của nguồn tư liệu. Nguồn tư liệu nguồn cội nhất là những lời dạy trực tiếp của chính Đức Phật; sau đó là các bậc trưởng thượng đa văn; thứ ba là hội chúng tỳ kheo trì pháp, trì luật; và thứ tư là một vị tỳ kheo trì pháp, trì luật. Theo quan điểm của khoa học nghiên cứu, nguồn tư liệu sơ cấp (primary sources) bao giờ cũng là nguồn thư tịch quan trọng hàng đầu. Thế nhưng ở đây, khi tiếp cận kinh điển ở bất kỳ nguồn nào, dù đó là vị tỳ-kheo không danh tiếng hay một bậc khả tín như chính Đức Phật, nhưng khoan vội tin ngay và cũng chớ nên vội vàng phản bác. Đây là thái độ cần có của một người thực hiện sứ mạng phiên dịch kinh điển. Vì lẽ, nếu như không giữ được tâm thế trầm tĩnh, kham nhẫn, khách quan này, thì người làm công tác phiên dịch kinh điển dễ dàng mất bình tĩnh, dễ khởi sân tâm và đôi khi có những ngôn từ chưa nhã ngữ.

Thứ hai, thái độ tham chiếu, đối khảo kinh điển là cơ sở cần thiếthết sức quan trọng để chứng thực lời Phật dạy. Đây là điều kiện tối cần vì chúng ta đã cách Phật quá xa. Từ thực tế cho thấy, ngay từ thời Đức Phật, tùy kheo khả năng chuyên biệt mà đã có những vị uyên thâm và sở đắc về kinh, luật và luận khác nhau. Không những vậy, trong quá trình phát triển, đã có những bộ phái Phật giáo lụi tàn, biến mất nên đã đồng thời kéo theo sự mai một truyền thống kinh điển của bộ phái đó. Đây là chưa kể đến sự tác động có chủ ý của con người, khiến những lời dạy của Đức Phật dù được lưu lại bằng văn bản, nhưng vẫn có khả năng đi quá xa và đi lạc Thánh ý. Chính vì vậy, nguồn tư liệu dùng để tham chiếu càng nhiều, càng tường tận, càng quy mô, thì tính chân thực của kinh điển càng được đảm bảo.

Thứ ba, khi đã xác tín rằng, đây là lời Phật dạy và kia chưa phải là lời Phật dạy thì cần có một thái độ ứng xử đúng mực theo lời dạy của Đức Phật. Nếu như sau khi đã tham chiếu mọi nguồn kinh điển khả tín, và phát hiện ra rằng, lời nói của vị pháp sư, hoặc nghĩa của bản kinh được dịch chưa đúng với lời Phật dạy, thì vị pháp sư hoặc người dịch kia phải thể hiện tinh thần cầu thị, không nên cố chấp. Yếu tính vô ngã cần phải được vận dụng trong trường hợp này. Phải hiểu rằng, pháp là của Phật, không phải của ta. Trong tất cả, cần phải trầm tư về lời dạy của Đức Phật trong kinh Pháp Cú: Tỳ-kheo chớ tự tin./ Khi lậu hoặc chưa diệt (Bhikkhu vissāsamāpādi, appatto āsavakkhayaṃ, Dhp.272). Từ trường hợp của ngài Đạo Sanh (355-434), khi phát hiện và tuyên bố về trường hợp Nhất-xiển-đề có thể thành Phật. Tuyên bố này đúng với lời dạy của Đức Phật, nhưng ngài Đạo Sanh đã bị số đông người xuất gia thời ấy tẩn xuất khỏi Tăng-đoàn[3]. Sự kiện đặc thù đó đã cho thấy rằng, chân lý chưa hẳn thuộc về số đông, nhất là số đông chưa thuần chánh pháp. Trường hợp này là một bi kịch liên quan đến lịch sử phiên kinh, mà chúng ta cần phải nhận ra để phòng tránh.

Thứ tư, ngôn ngữ là một thực thể sinh động và được vận hành theo những quy luật đặc thù của riêng chúng. Nhờ có ngôn ngữcon người có thể tự hiểu rõ chính mình, hiểu rõ xung quanh, hiểu rõ bản chất của cuộc đời cũng như cả thế giới. Thưc tế cho  thấy rằng, lời dạy của Đức Phật được truyền dạy cho đến ngày nay phần lớn được giữ gìn trên một phương diện của ngôn ngữ, là chữ viết. Việc am tườngthuần thục ngôn ngữ mẹ đẻ cũng như nhiều thể loại ngôn ngữ khác nhau, cách vận dụng linh hoạt của từng thể loại ngôn ngữ trong những giai đoạn lịch sử cụ thể, là những điều kiện quan trọng. Đó cũng là lưu ý của Đức Phật trong kinh Vô tránh phân biệt, thuộc Trung Bộ: Ở đây, này các Tỷ-kheo, trong nhiều quốc độ, người ta biết (những chữ) Pati... Patta... Vittha.. Sarava.. Dharopa.. Pona... Pisila. Như vậy, như họ biết trong các quốc độ ấy những chữ là như vậy, như vậy, có người lại làm như vậy, kiên trì chấp thủ, chấp trước và nói: "Chỉ như vậy là sự thật, ngoài ra là hư vọng". Như vậy, này các Tỷ-kheo, là chấp trước địa phương ngữ, là đi quá xa ngôn ngữ thường dùng.[4]

Cuối cùng, quá trình tiếp cận, nghiên cứu, chuyển dịch lời dạy của Đức Phật sang bản ngữ là một sứ mạng quá đỗi gian khó và cũng rất cao quý, thiêng liêng. Theo quan kiến riêng của người viết thì công đức cũng từ đây và đọa đày cũng từ đấy. Do vậy, việc thường xuyên nuôi dưỡng và thắp sáng ý thức này, cũng là một trong những phương cách để tự mình kiện toàn những điều kiện cần thiết, cũng như giúp cho tự thân nếm trải pháp vị đề-hồ từ chánh pháp uyên nguyên.

Chúc Phú



[1] Culla Vagga, tập 2, chương Các tiểu sự, Việc chuyển đổi lời dạy của Đức Phật sang dạng có niêm luật, đoạn 180. Bản dịch tiếng Việt của Tỳ-kheo Indacanda. Xem thêm, 大正藏第 22 冊 No 1.428 四分律, 卷第五十二, 雜揵度之二. Nguyên văn: 聽隨國俗言音所解誦習佛經.

[2] Bản dịch của Ban hiệu chú Đại tạng kinh, thuộc Viện nghiên cứu Phật Học Việt Nam.

[3] 大正藏第 49 冊 No. 2035 佛祖統紀, 卷第二十六. Nguyên văn: 師被擯南還入虎丘山.

[4] Kinh Trung Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2012, tr. 575.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14598)
Tất cả chúng ta đều có tiềm năng của sự thiện hảo. Thế nên, hãy nhìn lại chính mình để thấy tất cả những tiềm năng tích cực ở trong ta.
(Xem: 14035)
Nếu nền tảng đổi thay thì dĩ nhiên cái danh xưng đặt để cho nó cũng phải thay đổi. Vì vậy, không có một linh hồn thường hằng, bất biến...
(Xem: 14924)
Nghiệp là một quy luật tự nhiên và khách quan, vận hành hoàn toàn phù hợp với những hành động của chúng ta. Nghiệp tự thân nó là một quy luật nên không cần phải có người làm luật.
(Xem: 16534)
Buông bỏ có nghĩa là “Nếu tôi có được những thức ăn mà tôi thích thì rất tốt. Nếu không có nó thì cũng không sao...
(Xem: 29846)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 16192)
Chỉ có bậc giác ngộ mới thấy biết chân thật mọi lẽ ở đời; chỉ có đức Phật mới thấy chúng sinh nào sinh đến đâu, trở lại làm người, sinh lên cõi Trời...
(Xem: 15521)
Tinh thần giác ngộgiải thoát của đức Phật không những chỉ có trong kinh điển Phật giáo Tiểu thừa mà có cả trong kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 14864)
Trong Phật giáo, nghiệp nói về những xung động. Căn cứ vào những hành động ta đã làm trong quá khứ, những xung năng khởi lên trong tâm ta...
(Xem: 14855)
Con đường giác ngộ không phân biệt giới tính, giai cấp, màu da, chủng tộc, tu sĩ hay cư sĩ... Thích Nhật Từ
(Xem: 17854)
Theo triết lý nhà Phật, Tâm là chủ thể tạo tác ra mọi thứ (Vạn pháp do tâm tạo), trong đó có tướng. Tâm là nhân mà pháp là quả.
(Xem: 15553)
Tiếng Nói Của Phật Pháp và Tương Lai Phật Giáo - Jack Petranker - Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 38628)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 26695)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
(Xem: 39614)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 50715)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 38702)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 35001)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 18278)
Với Đức Phật, vì tình thương vô hạn đối với chúng sanh nên Ngài đã hy sinh tất cả để tìm cầu Thánh đạo. Sau khi đã ngộ đạo, Ngài lại chuyển vận bánh xe pháp...
(Xem: 16443)
Tam vô lậu học - Giới, Ðịnh, Tuệ là phương tiện duy nhất để vượt thoát bến mê sinh tử... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 42362)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 39204)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 35575)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 17437)
Con đường đến giải thoát luôn gắn liền với tuệ giác. Thân này bất tịnh, vô thườngphi thực là một tuệ giác quan trọng, không thể thiếu trong chiêm nghiệm...
(Xem: 46473)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 17132)
Chư Phật Như Lai đã lìa mọi cái thấy, mọi tưởng, nên tâm không chỗ nào không hiện diện. Tâm chân thật ấy là tánh của tất cả các pháp.
(Xem: 28474)
Những người Phật tử chúng ta phải là những người Phật tử của thế kỷ 21, có nghĩa là Phật tử với kiến thức đầy đủ về Phật Pháp, điều này rất căn bản.
(Xem: 18967)
Trong kinh điển Phật giáo, danh và thực là hai phạm trù được đề cập, phân tích cặn kẽ. Danh là tên gọi, hình thức bên ngoài. Thực là phẩm chất, nội dung bên trong.
(Xem: 17568)
Bồ đề tâm là vua các phép lành. Phát Bồ đề tâm là điều tối cần thiết của một đệ tử Phật. Có nhiều bản văn của chư Tổ viết để khuyên người phát tâm vô thượng ấy.
(Xem: 17090)
Thời Thế Tôn tại thế, Ngài rất chú trọng đến phận sự an cư mùa mưa của chư Tăng. Đặc biệt nhất là trong ba tháng mùa mưa ở rừng Icchànangala, Ngài đã nhập thất...
(Xem: 17526)
Trong kinh điển Phật giáo, có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một số câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc...
(Xem: 16503)
Vì mọi hiện tượng tâm lý tinh thầnvật lý vật chất không có cái gì có một chủ thể độc lập hay thường còn cả, nên nó là “vô thường”, nó là “vô ngã”, không có ta.
(Xem: 16854)
Tình yêu thươngnăng lực vô song, giúp bạn không còn cảm xúc sợ hãi. Một khi bạn phát triển được tình yêu thương (tâm Đại từ) thì sẽ không còn chỗ cho sự sợ hãi.
(Xem: 30804)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 16920)
Chúng ta cũng nên biết: “Vô thường thì vô ngã”, tại sao? Vì thân tâm con người gồm có sắc và tâm, Sắc là thân do Bốn Đại “Đất, Nước, Gió, Lửa” hợp lại mà thành...
(Xem: 18479)
Áo nghĩa thư (Upaniṣad) còn được biết với một tên gọi khác nữa, đó là Vedānta, vì nó được xem là phần tột cùng của Phệ-đà... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 18427)
Chính Đức Phật đã quy chuẩn cách dùng ngôn ngữ hay tiếng nói địa phương trong việc truyền đạt giáo lý... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 17365)
Thực ra luân hồi sanh tử không chỉ vậy! Luân hồi sanh tử còn là tiến trình tâm trong mỗi sát-na... Đỗ Hồng Ngọc
(Xem: 18138)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Một hôm vào buổi sáng, Tỳ Kheo Nan Đà mặc áo sặc sỡ, đi giày viền vàng, lại vẽ mặt, trông rất kỳ quặc...
(Xem: 17049)
Đại Vương nên biết thân người như tuyết đọng, rồi sẽ tan rã, cũng như ngói đất sẽ tan hoại không thể giữ lâu mãi mãi...
(Xem: 23443)
Vì luôn khế hợp với chân lý của cuộc đời, nên giáo pháp của Đức Phật cũng như một bánh xe có thể chuyển vận hướng về phía trước, di chuyển, lan tỏa đến nhiều xứ sở...
(Xem: 16970)
Phật giáo cho rằng tất cả những mâu thuẫn, nội kết, xung đột trong phạm vi cá nhân hay xã hội đều được phát sinh từ ba độc tố trong tâm thức, đó là tham, sân, và si.
(Xem: 17443)
Căn cứ trên khái niệm về Tính không nghĩa là Quang Minh khách thể, và cũng căn cứ khái niệm về Quang Minh chủ thể, chúng ta cố gắng phát triển một sự lí hội thông hiểu...
(Xem: 17636)
Vô ngãhình thức đối nghịch với cái ngã. Cái ngã thì sanh lão bệnh tử, biến dị, khổ ưu, vô thường. Trái lại vô ngã được quan niệm như là bất sanh bất diệt...
(Xem: 17044)
Con đường tìm đạo, tự tu tự chứng đến khi đắc đạo của đức Phậthành trình lắm chông gai với lòng kiên trì quyết thắng là một nỗ lực phi thường.
(Xem: 15716)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ, lúc ấyTỳ Kheo Cù Ba Ly (có sách dịch là Cù Ca Lê) đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật rồi thưa...
(Xem: 18004)
Một hành động có ba phần: Động lực (ý nghiệp) thúc đẩy chúng ta nói (khẩu nghiệp) và hành động (thân nghiệp).
(Xem: 17372)
Đạo đức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo, tác giả: Peter Harvey, Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 17160)
Tâm vô lượng là tâm rộng lớn không thể tính lường được. Tâm vô lượng không những làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, dẫn sinh vô lượng phúc đức...
(Xem: 29483)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27685)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 18146)
Đối với Đức Phật thì tất cả mọi hiện tượng đều không ngừng hình thành, không có một ngoại lệ nào cả, vì thế chúng không hàm chứa bất cứ một thực thể cố định hay bất biến nào.
(Xem: 16086)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hóa dân gian như thành ngữ ăn chay niệm Phật...
(Xem: 15329)
Cố vận động một phong trào dùng lại từ Bụt thay từ Phật đã không thăng tiến được một phương diện nào, không làm cho Phật Giáo Việt Nam phát triển mạnh hơn, cao hơn...
(Xem: 22985)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14806)
Thật ra, danh từ Bụt không phải là một danh từ mới, mà vốn đã được tổ tiên nhiều đời người Việt sử dụng từ lúc lập quốc đến nay, gần cả hai ngàn năm...
(Xem: 55075)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 14171)
Phật giáo là “chân lý thực tại”, mà cốt lõi chính là đạo đứcgiới luật làm nền tảng. Khi Phật còn tại thế, ngài chế giới là để ngăn ngừa sự bại hoại của tăng đoàn.
(Xem: 13236)
Chân Như vừa huân tậphai mặt ‘bên trong’ và ‘bên ngoài’. ‘Bên trong’ là huân tập trong tâm hành giả. ‘Bên ngoài’ là huân tập từ bên ngoài, tức là từ chư Phật, Bồ-tát...
(Xem: 14149)
Rõ ràng, trong các mối quan hệ của con người thiết lập, thì mối quan hệ thầy đối với trò có một vai trò quan trọng trong đời sống thăng tiến tri thứcchuyển hóa tâm linh...
(Xem: 15488)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant