Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Trụ Xứ

05 Tháng Giêng 202012:30(Xem: 4833)
Trụ Xứ

TRỤ XỨ

Mãn Tự

Làm Chủ Sanh Tử 1

Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm. Hai ngàn sáu trăm năm, tính theo chung cuộc trung bình là 75 năm cho một kiếp sống của chúng sanhthế giới Ta Bà này thì luân hồi chuyển hóa khoảng gần 35 kiếp. Thật là dài phải không?

Với hiện tượng biến hóa của “tình thức” theo dòng thời gian xô đẩy, việc cũ qua đi, cái mới xuất hiện theo sự vận hành của cộng nghiệp là thành - trụ - hoại - không của thế giới vô thường này, vì vậy nhận thức của nhân gian dù muốn dù không cũng theo đó mà chuyển đổi. Vì không cưỡng lại được dòng thời gian “xô đẩy” nên chúng sanh nhận lấy Hiện tượng làm thật mà quên đi Bản thể. Thế nào là lấy Hiện tượng làm thật mà quên đi Bản thể, đó là vấn đề căn bản nhất ở thế giới Ta Bà này là: Sinh - Lão - Bệnh - Tử. Đối với những nước văn minh giàu có bây giờ thì sinh không còn nguy hiểm với những bà mẹ, vì đã có những kỹ thuật văn minh tiên tiến giúp cho sự sinh được hoàn mỹ. Còn lão thì cũng có viện dưỡng lão giúp cho người già không lo lắng về thực phẩm, mà bệnh cũng vậy, có không biết bao nhiêu loại thuốc để trị liệu cho con người. Còn Tử thì sao? Không một ai giúp được dù đó là gì đi nữa, tuy nhiên có một vài giáo phái phát minh ra phương pháp trợ tử, theo những niềm tin của họ thì làm như vậy giúp cho người chết được đến nơi tốt đẹp?

Sơ lược những điều ở trên để thấy rằng, do đời sống phong phú nên con người chỉ bám đuổi theo Hiện tượng mà quên đi Bản thể. Thế nào là Bản thể - Hiện tượng. Thật ra Bản thểHiện tượng chưa bao giờ rời nhau. Nếu Bản thểHiện tượng chưa bao giờ rời nhau vậy làm thế nào để từ Hiện tượng nhận ra Bản thể? Tất cả chúng sinh hiện hữu trên thế giới này có hai Hiện tượng là bắt đầu và chấm hết, dù là bắt đầu hay chấm hết thì với chúng sinh không một ai làm chủ được hết cũng đừng nghĩ là chấp nhận hay không chấp nhận.

Thế nào là Bản thể: Tất cả Hiện tượng trong thế giới này là: Sắc - Thanh - Hương - Vị - Xúc - Pháp là từ Bản thể biến hiện ra cho đến sinh tử cũng vậy. Vì vậy vị tu hành nhận ra Bản Thể, thấy Bản thể thì Hiện tượng sinh - tử không tồn tại nữa.

Vậy làm thế nào từ Hiện tượng nhận thấy ra Bản thể? Sinh là hiện tượng nếu nhận thấy Sinh Sinhnhận ra Bản thể. Tử là Hiện tượng mà thấy được Tử Tử tức thấy được Bản thể. Vì sao sinh tử gọi là Hiện tượng mà không phải là sự thật? Gọi là Hiện tượng vì không người nào làm chủ được nên là Hiện tượng. Nếu sinh tử là thật thì cũng không có sinh tử, vì sao? Nếu sinh là thật thì không còn sinh nữa, tử cũng vậy, nếu tử là thật thì cũng không còn tử nữa.

Một vài giải thích ở trên để đi vào chính đề của bài viết này là xây dựng lại niềm tin cho giới tu hành, từ Tu sĩ cho tới Cư sĩ về giáo Pháp của Đức Như Lai để lại. Vì tình thức nhận lấy sự chuyển biến của dòng thời gian chung cộng nghiệp nên 2600 năm cũng đủ dài làm cho sự nghi ngờ càng ngày càng rộng ra.

Hiện nay trong thâm tâm giới tu hành, từ Tu sĩ tới Cư sĩ hầu hết đều có những câu hỏi, những nghi ngờ to lớn không thể giải quyết bằng chứng minh thực tại mà chỉ dựa vào niềm tin mà thôi.

Và đây sẽ đưa lên những câu hỏi, những nghi ngờ tiêu biểu trong thâm tâm giới tu hành theo giáo Pháp Đức Thế Tôn Như Lai.

1. Sự nghi ngờ thứ nhất là: Đức Thế Tôn Như Lai đã nhập Niết Bàn hay còn tồn tại?

2.  Có chư vị Bồ Tát - Đại Bồ Tát hay không, nếu có thì chư vị đó ở đâu đang làm gì, có thể thấy biết được không? Tu hành như thế nào để chứng nhập.

3. Thế nào là chánh Pháp, làm thế nào để nhận ra chánh Pháp.

4. Có sự giải thoát của bậc Thanh Văn Duyên Giác? Có sự giác ngộ của chư Đại Bồ Tát?

Thật ra thì có rất nhiều câu hỏi nghi ngờ trong giới tu hành, tuy nhiên ở đây chỉ đưa lên bốn sự nghi ngờ căn bản, cũng mong rằng sự giải đáp trong bài viết này có thể giúp các vị tu hành đang tìm cầu định hướng, củng cố niềm tin vững vàng tinh tiến để tiếp tục đi tới.

Sự nghi ngờ thứ nhất là: Đức Thế Tôn Như Lai đã nhập Niết Bàn hay còn tồn tại. Trước nhất phải hiểu từ Niết Bàn. Niết Bàntừ ngữ của đạo Hindu Đức Thế Tôn phương tiện mượn nó để chỉ cho các vị Tu sĩ Bà La Môn rằng Niết Bàn không phải chỉ là như vậy mà nó còn siêu việt hơn thế nữa.

Niết Bàn có ba tầng cấp độ.

1. Niết Bàn của các vị Ngoại đạo Tu sĩ Bà La Môn.

2. Niết Bàn của các vị Thánh Nhị Thừa Thanh Văn Duyên Giác.

3. Niết Bàn các vị Đại Bồ Tát, chư Như Lai.

Thế nào cảnh giới Niết Bàn của các vị Ngoại đạo Tu sĩ Bà La Môn: Niết Bàn các Ngoại đạoTu sĩ Bà La Môn là trong Tam giới, tức các cõi Trời từ Dục giới, Sắc giới cho đến Vô Sắc giới. Phương Pháp tu tập để được đến các cõi đó là từ Sơ thiền cho đến Cửu thứ đệ Định. Tùy theo định lực mạnh hay yếu, ý thức cộng thêm tưởng, cảnh giới hướng đến, nhờ tập trung cao độ nên khi đắc định thì cảnh giới tưởng hướng đến hiện ra. Nên nhớ các vị Ngoại đạo Tu sĩ Bà La Môn trước khi tu học thì họ được các vị thầy giảng, hay học từ kinh điển hay hình ảnh về các cảnh giới hay các cõi trời, rồi ghi nhận lưu lại làm ấn tượng hướng đến tu tập, nên khi nhập định cảnh giới xuất hiện nên gọi là tưởng, vì sao? Vì Tam giới duy Tâm. Nói chung các Ngoại đạo cùng Tu sĩ Bà La Mônchứng đắc như thế nào thì cũng không ra ngoài cái Tưởng. Vì sao? Vì Tâm lưu trú.

2. Là Niết Bàn của các vị Thánh Nhị Thừa Thanh Văn Duyên Giác.

Niết Bàn của các vị Thánh Nhị Thừatrạng thái tịch tịnh. Trạng thái an lạc tịch tịnh đó do thiền định quán Pháp mà chứng giải thoát trói buộc phiền não. Pháp các vị Thanh Văn tu họcTứ Thánh ĐếBát Chánh Đạo, còn Pháp các vị Duyên GiácThập Nhị Nhân Duyên.

Sự khác biệt giữa thiền định đạo Phật và đạo Hindu Bà La Môn cùng Tu sĩ Ngoại đạo là: các vị Thanh Văn theo Đức Thế Tôn nhờ các Pháp Thế Tôn chỉ dạy mà thiền định tu học, nên khi đắc định thì được giải thoát phiền não trói buộc, Tâm được an lạc tịch tịnh. Còn các vị Ngoại đạo Bà La Môn khi đắc định thì được sanh vào các cảnh giới trong Tam giới. Dù vậy, có một số Ngoại đạo Bà La Môn cũng tu hành thiền định mà không muốn thác sinh vào Tam giới, chỉ mong cầu được tịch tịnh. Tuy nhiên vì không có Pháp, vì nhận nhầm Pháp đoạn diệt nên khởi vọng tưởng xóa hết cái nhân giác tri, cho tất cả hư vô như thỏ không sừng. Do khởi Tâm tu hành sai lầm nên kết quả thành vô tri vô giácVô Tưởng Thiên là nơi đến.

Các vị Thánh Nhị Thừa dù được Niết Bàn tịch tịnh an lạc, tuy nhiên Niết Bàn đó không phải là rốt ráo vì không chuyển được Thức thành Trí nên còn hai cái chấp.

Một là: Chấp tướng đắc tự giác Thánh Trí sai biệt.

Hai là: Tướng so sánh chấp trước tánh vọng tưởng của tự tánh.

Thế nào là tánh “Đắc tự giác Thánh Trí sai biệt” của thừa Thanh Văn. Hãy suy ngẫm đoạn Kinh Lăng Già Đức Thế Tôn Như Lai chỉ ra: “Ấy là cảnh giới chơn Đế, vô thường, khổ, không, vô ngã, lìa dục, tịch diệt, dứt ấm, giới, nhập, tự cộng tướng, ngoài bất hoại tướng, như thật biết Tâm được tịch lặng. Tâm tịch xong được thiền định giải thoát tam muội đạo quả”. Tuy nhiên chánh thọ giải thoát ấy chẳng lìa biến dịch sanh tử bất tư nghị.

Thế nào là so sánh chấp trước tánh vọng tưởng tự tánh: ấy là đại chủng xanh, vàng, đỏ, trắng, địa, thủy, hỏa, phong, chẳng do tạo tác mà sanh tự tướng cộng tướng, tuy nhiên các vị Nhị Thừa không nhận ra đó chỉ là phương tiện của Đức Thế Tôn thuyết, chư vị Thanh Văn do đó khởi tự tánh vọng tưởng. Ấy gọi là tướng so sánh chấp trước, tánh tự tánh vọng tưởng của thừa Thanh Văn.

Tóm lại Niết Bàn chứng đắc của Nhị Thừakhông thật vì sự an lạc tịch tịnh đó chỉ là cái thức lặng dừng chứ không chuyển được cái Thức thành Trí.

3. Niết Bàn chư vị Đại Bồ Tát, chư Như Lai.

Không như Niết Bàn Ngoại đạo cùng Nhị Thừa vì cả hai còn trong vòng nhị nguyên đối đãi. Ngoại đạo thì từ nơi này đến nơi kia còn Nhị Thừa thì chỉ thích tịch tịnh, không ưa náo động.

Còn thế nào là Niết Bàn chư vị Đại Bồ Tát: đó là Niết Bàn không “dấu vết”, vì sao không dấu vết? Vì “Pháp Pháp trí tuệ, niệm niệm Niết Bàn”. Do trí tuệ chiếu trên Pháp Pháp nên Niệm Niệm thanh tịnh. Vì niệm niệm thanh tịnh nên gọi Niết Bàn (nên nhớ Niết Bàn chỉ là danh tự mà thôi)

Thế nào là Pháp Pháp trí tuệ. Đó là Phàm Phu Pháp (hay thế gian pháp), Nhị Thừa Pháp, Bồ Tát Pháp. Trong hai Pháp là thế gian PhápBồ Tát Pháp bất ly, bất nhịPhật Pháp bất ly thế gian Pháp, còn Pháp Nhị Thừa thì đứng riêng. Đối với thế gian thì các vị Nhị Thừa không chấp nhận vì nó phiền não ồn náo, còn đối với Bồ Tát Pháp thì không mong cầu vì các vị Nhị Thừa đã thỏa mãn những gì đã chứng đắc và bằng lòng an trú ở đó. Đối với các ngài ngôi Chánh Đẳng Chánh Giác Vô Thượng Bồ Đề, độ tận chúng sanh không phải là việc của các ngài.

Ở trên giải thích một ít về danh từ Niết Bàn. Bây giờ nói về Niết Bàn không dấu vết: Trong Kinh Lăng Già, bài kệ tán thán Đức Như Lai của ngài Đại Huệ Bồ Tát có một đoạn nói về Niết Bàn như thế này: “Niết Bàn chẳng thể lập. Chẳng có Niết Bàn Phật. Chẳng có Phật Niết Bàn. Lìa năng giác sở giác. Hoặc có hoặc không có. Cả hai thảy đều lìa”.

  Bài kệ ở trên cho thấy rằng Niết Bàn là một trong trạng thái mà người tu hành Bồ Tát tự chứng ngộ trong Tâm, chứ không phải một nơi chốn nào đó mà cần phải đi đến. Với hầu hết trong giới tu hànhquan niệm lệch lạc là khi chết mới nhập Niết Bàn. Vậy Đức Thế Tôn khi giác ngộthời gian 45 năm thuyết Pháp độ sinh thì gọi là gì? Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn có vị Bồ Tát hỏi về cảnh giới Niết Bàn thì Đức Thế Tôn trả lời: “Thân ta chính là Niết Bàn” còn đối với chúng sanh không hiểu về Niết Bàn như Ma Vương Ba Tuần thì Thế Tôn nói khác khi yêu cầu ngài nhập Niết Bàn.

“Chẳng có Niết Bàn Phật, chẳng có Phật Niết Bàn”. Vì vậy chư Thế Tôn, chư Đại Bồ Tát không nhập Niết Bàn. Vậy nếu các vị không nhập Niết Bàn thì đang ở đâu? Làm gì? Có thể thấy biết được không? Trước khi trả lời những nghi ngờ của giới tu hành, ở đây xin nói trước là những câu trả lời không phải tất cả mọi trình độ đều nhận được mà phải là giới tính hoa thật Tâm tu hành nhiều năm công phu mới nắm bắt được, vì đã ra ngoài sự nhận thức sáu căn, sáu trần. Thêm nữa cũng có những từ ngữ như “có và không” tuy nhiên có, không đó không ở trong nhị nguyên. Có, Không nhị nguyên được thành lập bởi lục căn, lục trần. Vì vậy khi trần hiện thì gọi là có, khi trần diệt thì gọi là không, mà sau đây cũng dùng từ có, không tuy nhiên nghĩa thì nằm ngoài căn, trần, thức.

Sự nghi ngờ đặt lên câu hỏi là: “có chư Như Lai, chư vị Đại Bồ Tát hay không” xin trả lời xác quyết là “Có”. Nói là có, vậy chư vị đó ở đâu? Có thấy được không? Có thể gặp được không? “Chắc chắn là thấy được gặp được”. Nói là “có” là “gặp được là thấy được”, vì sao? Vì chư vị đó chưa bao giờ rời chúng sanh. Nếu chư vị đó mà rời chúng sanh thì những lời “nguyện” độ tận chúng sanh trong Kinh thành ra hí luận.

Để gặp chư Như Lai, chư Đại Bồ Tát cùng Trụ Xứ của các ngài thì vị hành giả đó phải đầy đủ trang nghiêm hai cấp độ của hai Pháp: Hai Pháp đó là:

Một là: Thấy như thật thực tướng của “Sắc”.

Hai là: Phải chứng “Ngộ” bất nhị Pháp môn.

Như thế nào là thấy thực tướng của “Sắc”. Chữ Sắc này nói chung là sắc tướng của vạn hữu, vạn Pháp trong Pháp giới được thấy bằng mắt, tuy nhiên cái thấy đó không trung thực đối với hầu hết người thế gian. Vì sao?  Vì một đứng một chuyển hay vì một chữ “nhớ” hay “chấp giữ” nên thấy không trung thực thật tướng của sắc.

Vậy thế nào là “thực tướng” của Sắc? Không nói được. Vì nói ra được thì nó không còn là nó nữa mà chỉ là danh, tướng, phân biệt mà thôi. Câu thần chú “Sắc tức thị không, không tức thị sắc” trong Bát Nhã Tâm Kinh là mở đầu cho tiến trình tu hành để chứng được “thực tướng của sắc”

Để thấy được thực tướng của sắc vị hành giả tu hành phải vượt qua bốn tiến trình từ thô đến tế:

Tiến trình thứ nhất là: Phân đoạn vô thường. Phân đoạn vô thường có nghĩa là căn đối cảnh hay căn trần. Vị đó phải thấy được, chứng được sự vô thường sinh diệt của vạn Pháp.

Tiến trình thứ hai là: Tâm thức vô thường. Tâm thức vô thường có nghĩa là nhận ra sự vận hành dòng Tâm thức do chấp thủ căn – trần mà có.

Tiến trình thứ ba là: Biến dịch vô thường. Biến dịch vô thường có nghĩa là nhận ra Tâm và cảnh bất ly, vì Tâm do cảnh mà khởi, còn cảnh do Tâm mà hiện. Về Thiền Tông, không nhớ là vị Tổ thứ ba hay thứ tư, có câu nói “Cảnh duyên không tốt xấu - Tốt xấu vốn tại Tâm” là như vậy.

Tiến trình thứ tư là: Khi vị hành giả vượt qua ba cấp độ ở trên đến tiến trình thứ tư là thực hiện Hạnh độ sanh tạo cơ duyên đến lúc đúng thời cơ thì “Ngộ” ra thấy được “Thực tướng” của Sắc. Thấy thực tướng của Sắc thì phải tự Ngộ, không ai dạy được hết, cho đến Đức Thế Tôn Như Lai cũng vậy. Đức Thế Tôn chỉ cho chúng ta thực tướng của Sắc là “Không tức thị sắc” còn thấy được hay không là phần Hành Giả.

Mãn Tự
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11002)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10886)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13327)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11749)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13641)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11868)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11136)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12157)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12371)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20553)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12387)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12410)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11673)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11542)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22369)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13531)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29595)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11520)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16686)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 11955)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16792)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12036)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17887)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12604)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13121)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14710)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22565)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10544)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14010)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13846)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13665)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13828)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13877)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14791)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13797)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18381)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22747)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15367)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17286)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22361)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14222)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12539)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11123)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17722)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13168)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13077)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18764)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17151)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13464)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12874)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14669)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14616)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15815)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13465)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27389)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13199)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16659)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
(Xem: 21337)
Tiếng Phạn sthùpa, tiếng Pàli thùpa, dịch âm là tốt đổ ba, tô thâu bà; lược dịch là tháp bà, Phật đồ, phù đồ; dịch ý là chỗ cao ráo, nơi hội tụ công đức, ngôi mộ lớn...
(Xem: 18776)
Bồ Tát Quan Thế Âmhiện thân của Từ Bi, Ngài phát đại nguyện thực hiện từ bi cùng tận trong đời vị lai, nếu chúng sinh còn đau khổ. Vì chỉ có từ bi mới giải trừ đau khổ...
(Xem: 23037)
Tự tính các pháp chính là Tự Thể của các pháp. Vì các duyên hòa hợp sinh ra các pháp nên nếu các duyên tan rã thì các pháp mất do đó các pháp khôngtự tính cá biệt.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant