Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Thư Viện Quốc Hội Mỹ Đã Công Bố Một Văn Bản Quí Hiếm Từ 2.000 Năm

18 Tháng Giêng 202005:18(Xem: 4147)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ Đã Công Bố Một Văn Bản Quí Hiếm Từ 2.000 Năm

Library of Congress : A rare 2,000year old scroll about
the early years of Buddhism is made public

(THƯ VIỆN QUỐC HỘI MỸ ĐÃ CÔNG BỐ
MỘT VĂN BẢN QUÍ HIẾM TỪ 2.000 NĂM
ĐƯỢC XEM NHƯ BUỔI BÌNH MINH CỦA PHẬT GIÁO RA CÔNG CHÚNG) .

By Allen Kim  - CNN - Trịnh Khải Hoàng chuyển Việt ngữ
Updated 0004 GMT (0804 HKT) July 30, 2019
A portion of the Gandhara scroll from the Library of Congress.

 
cay bach duong

(Nguồn CNN) Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta có thêm một cái nhìn thoáng qua về Lịch Sử Phật Giáo  trong những năm hình thành sớm nhất .  Cuộn sách có nguồn gốc ở Gandhara thuộc một khu vực Phật Giáo cổ ở miền bắc Afghanistan và Pakistan.  Chỉ có vài trăm bản thảo Gandharan được các học giả trên toàn thế giới biết đến, và mỗi bản đều quan trọng để hiểu được sự phát triển ban đầu của Văn Học Phật Giáo.  Với phương pháp phân tích ngôn ngữ, các học giả nghiên cứu các bản thảo này để lập biểu đồ về sự truyền bá của Phật Giáo khắp châu Á. Bản văn Gandhara thuật lại bởi Siddhartha Gautama  Sakya Muni (Đức Phật Thích Ca Mâu Ni) nhà sáng lập Phật Giáo và kể câu chuyện về 13 vị Phật  trước Ngài, sự xuất hiện của chính Ngài và thọ ký về một vị Phật tương lai. Đức Phật giảng thuyết về mỗi vị Phật sống được bao lâu, tầng lớp xã hội mà mỗi vị Phật được sinh ra và thời gian giáo hoá  đều được ghi chép trong văn bản cổ này .

 

Ông Jonathan Loar - Quản Thủ Thư Viện Quốc Hội Mỹ cũng  là thủ thư tham khảo tại Phân Khu Châu Á tại Thư Viện cho biết trong một tuyên bố nói với phóng viên CNN: "Cuộn sách được bảo quản rất tốt nhờ vào công việc của những người bảo quản Thư Viện, nhưng nó vẫn rất mỏng manh !  Đây là một đặc  phẩm độc đáo, bởi vì nó rất cũ so với các bản thảo tương tự và như vậy, nó mang lại cho chúng ta về mặt Lịch Sử, tương đối gần với thời đại của Đức Phật Sakya Muni  và hiện tại thư viện giữ lại được gần 80% văn bản gốc, chỉ thiếu phần đầu và phần cuối. Hầu hết các cuộn Gandharan khác được các học giả biết đến đều rời rạc hơn…Tôi muốn tìm cách chia xẻ tài liệu quí hiếm vô cùng độc đáo này với công chúng … Được mua vào năm 2003 từ một nhà sưu tập tư nhân, cuộn giấy là một trong những mảnh phức tạp và dễ vỡ nhất mà Thư Viện Quốc Hội đã từng bảo quản. Các chuyên viên bảo quản tài liệu thư khố, phải mất vài năm khảo sát và nghiên cứu mới phát minh ra phương pháp “điều trị” và họ đã thực hành các kỹ thuật không kiểm soát trên miếng thuốc lá xì gà khô. Việc nghiên cứu và bảo quản văn bản cổ này sẽ không bao giờ có thể làm được nếu không có các điều kiện tối ưu dành cho việc bảo tồn văn bản được lưu trữ… Có  một lý do là các cuộn giấy Gandharan, giống như cuộn cổ thư này tại Thư Viện Quốc Hội, trước  kia từ xa xưa thường được chôn trong các bình đất nung và được đặt trong một bảo tháp, cấu trúc hình mái vòm thường chứa các văn bản hoặc thánh tích của Phật Giáo và còn  nguyên nhân khác nữa, là khí hậu tương đối cao, khô cằn của vùng Gandharan giúp bảo tồn các vật liệu như bản thảo trên vỏ cây bạch dương này . Mặc dù bản thảo quá mỏng manh để hiển thị công khai, nhưng bằng phương pháp chụp ảnh kỹ thuật số với độ phân giải cao thì Văn Bản Cuộn Gandhara của Thư Viện có thể chia xẻ  phần Lịch Sử quan trọng này với công chúng…”.


Tóm lược: Chứa thông tin về cuộc đời của mười lăm Phật: Dpaṅkara, Sarvābhibhū, Padmottara, Atyuccagāmin, Yaśottara, Śākyamuni và Maitreya (8 Vị theo Nikaya) . Cuộn sách đưa ra dự đoán của chư vị cổ Phật giáo thuyết về tương lai của Śākya Muni sẽ thành Phật, bốn khóa đào tạo của đức Phật Sakya Muni dưới các vị Phật khác; tuổi thọ của họ; những đời họ sống; tầng lớp xã hội nơi họ được sinh ra; hội chúng của các môn đệ; và thời lượng giảng dạy của họ.
 Vương quốc cổ đại Gandhara (ngày nay là Afghanistan và Pakistan) được xem là nguồn gốc của các bản thảo Phật Giáo lâu đời nhất trên thế giới, cũng như các bản thảo cổ nhất từ ​​Nam Á tồn tại. Được mua vào năm 2003, Gandhara của Thư Viện có niên đại khoảng giữa thế kỷ thứ nhất BCE và thế kỷ thứ nhất CE. Ngôn ngữ của nó là Gandhari, một từ phái sinh của tiếng Phạn, và chữ viết có tên là Kharoshthi. Các học giả đã gọi một cách không chính thức cuốn sách này là Bahubuddha Sutra, hay “The Many Buddhas Sutra”, vì nó giống với một văn bản có cùng tên. trong tiếng Phạn. Cuộn sách nói về cuộc đời của mười lăm vị Phật. Bản văn được thuật lại bởi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, người đưa ra những tiểu sử rất ngắn về mười ba vị Phật trước ngài, sau đó là sự ra đời và xuất hiện của Ngài, và kết thúc bằng sự thọ ký về tương lai của vị phật Maitreya (Phật Di Lặc). Các tiểu sử chứa thông tin khác, chẳng hạn như mỗi vị Phật sống được bao lâu, những vị Phật tiên đoán sự xuất hiện của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, xã hộiĐức Phật được sinh ra, và giáo lý của ngài tồn tại được bao lâu .


- Được cung cấp bởi nhân viên Thư Viện Quốc Hội.

- Xuất bản: Gandhara khoảng thế kỷ 1 trước Công nguyên - khoảng thế kỷ thứ nhất A.D.
- Tiêu đề:  Chư Phật.

- Công trình sớm đến 1800.

- Bản thảo, Kharoṣṭhi - Washington D.C.

- Bản thảo, Prakrit - Washington D.C.

 . Ghi chú:  Tiêu đề nghĩ diễn ra từ Catalog:

- Cuộn này trên vỏ cây bạch dương có nguồn gốc từ vùng Phật Giáo cổ xưa của Gandhara (Pakistan và Afghanistan ngày nay) và là một trong những bản thảo Phật giáo lâu đời nhất được biết đến. Nó được viết bằng ngôn ngữ Gandhari Prakrit trong kịch bản Kharoshthi, được đọc từ trên xuống dưới và từ phải sang trái. Bởi vì cuộn chứa chữ viết ở cả hai mặt, người ghi chép sẽ lật cuộn theo chiều dọc để tiếp tục viết trên ngược lại.

- Bản thảo có sáu mảnh lớn và khoảng 130 mảnh nhỏ hơn; Hầu hết hoàn thành với sự khởi đầu và kết thúc còn thiếu. Các mảnh vỡ được lưu trữ bằng phẳng trong hai hộp vỏ sò, có kích thước 73,5 x 45 x 7,8 cm. Một hộp chứa sáu mảnh lớn và hộp còn lại chứa các mảnh nhỏ hơn.

- Hình ảnh của Văn Bản này và phản ánh số lượng, định hướng và thứ tự các mảnh vỡ và bảo quản trong vỏ thủy tinh. Trong hình ảnh của trực tiếp của sáu mảnh lớn, ba mảnh nhỏ nhất phải được xoay 180 độ để đọc cuộn.

- Được mô tả trong: Krueger, Holly H. Bảo tồn thư viện Gandhara Scroll: một quá trình hợp tác.   Nhóm Sách và Giấy hàng năm, 27 (2008).

- Được mô tả trong: Salomon, Richard. "Một vị Phật, 15 vị Phật, 1.000 vị Phật. Ban ghi ngày 15 tháng 11 năm 2018 tại Thư viện Quốc hội. Thời gian chạy: 75 phút. Trung bình:1 cuộn.

Số điện thoại / Địa điểm

BQ4670 .G36

Thư viện số kiểm soát của Quốc hội

2018305008

Tư vấn truy cập:

Giới hạn truy cập; Chất liệu cực kỳ dễ vỡ; vui lòng sử dụng hình ảnh kỹ thuật số trực tuyến.

Ngôn ngữ Prakrit.

 

Định dạng trực tuyến: Sự miêu tả:

Chứa thông tin về cuộc đời sống của mười lăm (15) vị  Phật: Dpaṅkara, Sarvābhibhū, Padmottara, Atyuccagāmin, Yaśottara, Śākyamuni và Maitreya. Cuộn sách đưa ra dự đoán của chư Phật về tương lai của Śākyamuni sắp thành Phật; bốn khóa đào tạo của Ngài dưới các vị Phật khác; tuổi thọ của họ; những đời họ sống; tầng lớp xã hội mà họ được sinh ra; hội chúng của các môn đệ; và thời lượng giảng dạy của họ. "Vương quốc cổ đại Gandhara (ngày nay là Afghanistan và Pakistan) là nguồn gốc của các bản thảo Phật giáo lâu đời nhất trên thế giới, cũng như các bản thảo cổ nhất từ ​​Nam Á tồn tại. Được mua vào năm 2003, Gandhara của Thư viện có niên đại khoảng giữa thế kỷ thứ nhất BCE và thế kỷ thứ nhất CE. Ngôn ngữ của nó là Gandhari, một từ phái sinh của tiếng Phạn, và chữ viết có tên là Kharoshthi. Các học giả đã gọi một cách không chính thức cuốn sách này là Bahubuddha Sutra, hay 'The Many Buddhaas Sutra', vì nó giống với một văn bản có cùng tên. trong tiếng Phạn. Cuộn sách nói về cuộc đời của mười lăm vị Phật. Bản văn được thuật lại bởi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, người đưa ra những tiểu sử rất ngắn về mười ba vị phật đến trước ngài, sau đó là sự ra đời và xuất hiện của Ngài là Thích Ca Mâu Ni, và kết thúc bằng sự thọ ký về tương lai của vị Phật Di Lặc (Maitreya Buddha). Các tiểu sử chứa thông tin khác, chẳng hạn như mỗi vị phật sống được bao lâu, mỗi vị tiên đoán sự xuất hiện cuối cùng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, xã hội nào Phật được sinh ra, và giáo lý của ngài tồn tại được bao lâu”.

Được cung cấp bởi nhân viên Thư viện Quốc hội.

LCCN Permalink

https://lccn.loc.gov/2018305008

Định dạng siêu dữ liệu bổ sung

Bản ghi MARCXML

Bản ghi MODSBản ghi lõi Dublin: Library of Congress-MANUSCRIPT/MIXED MATERIAL  Gandhara scroll.
cay bach duongKinh Phật cổ viết trên vỏ cây bạch dương


(CNN)
The Library of Congress made public a rare 2,000-year-old text of early Buddhism on Monday, and it offers a glimpse into early Buddhist history during its formative years.

The scroll originated in Gandhara, an ancient Buddhist region in northern Afghanistan and Pakistan. Only a few hundred Gandharan manuscripts are known to scholars worldwide, and each is vital to understanding the early development of Buddhist literature. For instance, using linguistic analysis, scholars study these manuscripts to chart the spread of Buddhism throughout Asia.

The Gandhara text is narrated by Shakyamuni Buddha, the religious leader also known as Siddhartha Gautama, and tells the story of the 13 Buddhas who preceded him, his own emergence and the prediction of a future Buddha. Information on how long each Buddha lived, the social class they were born into and how long their teachings endured are all chronicled in the text.

 

 Buddhism Fast Facts

"This is a unique item because it is very old compared to similar manuscripts and, as such, it does bring us, historically speaking, relatively close to the lifetime of the Buddha," Jonathan Loar, reference librarian in the Asian Division at the Library of Congress, said in a statement.

The library's scroll retains nearly 80% of the original text, with only the beginning and end missing. Most other Gandharan scrolls known to scholars are more fragmentary.

"I wanted to find a way to share this incredibly unique item with the public," Loar told CNN. "The scroll is very well-preserved thanks to the work of the Library's conservators, but it is still incredibly fragile."

Purchased in 2003 from a private collector, the scroll is one of the most complicated and fragile pieces that the Library of Congress has ever treated. It took conservators several years to devise a treatment strategy, and they practiced unrolling techniques on dried-up cigars.

The treatment of the text would've never been possible if not for the unique conditions in which it was stored.

"One reason is that Gandharan scrolls, like the one at the Library of Congress, were typically buried in terra cotta jars and interred in a stupa, a dome-shaped structure often containing Buddhist texts or relics," Loar said. "Another reason is that the relatively high, arid climate of the Gandharan region helps preserve materials like manuscripts on birch bark."

Although the manuscript itself is too fragile for public display, by digitizing the text, the library is able to share this important piece of history with the public.

 

Library of Congress :MANUSCRIPT/MIXED MATERIAL: Gandhara scroll.

  Digitized scroll: Title:   Gandhara scroll.

 Summary:

 Contains information on the parallel lives of fifteen buddhas: Dīpaṅkara, Sarvābhibhū, Padmottara, Atyuccagāmin, Yaśottara, Śākyamuni [I], Tiṣya, Vipaśyin, Śikhin, Viśvabhū, Krakucchanda, Konākamuni, Kāśyapa, Śākyamuni [II] (also known as Siddhartha Gautama), and Maitreya. The scroll gives the buddhas' predictions of Śākyamuni's future coming as the Buddha; his four courses of training under the other buddhas; their lifespans; eons in which they lived; social class into which they were born; their assemblies of disciples; and duration of their teachings.

"The ancient kingdom of Gandhara (today's Afghanistan and Pakistan) is the source of the oldest Buddhist manuscripts in the world, as well as the oldest manuscripts from South Asia in existence. Acquired in 2003, the Library's Gandhara scroll roughly dates between the first century BCE and first century CE. Its language is Gandhari, a derivative of Sanskrit, and the script is called Kharoshthi. Scholars have informally called this scroll the Bahubuddha Sutra, or 'The Many Buddhas Sutra,' because it resembles a text with a similar name in Sanskrit. The scroll discusses the lives of fifteen buddhas. The text is narrated by Shakyamuni Buddha who gives very short biographies of thirteen buddhas who came before him, followed by his birth and emergence as Shakyamuni Buddha, and ending with the prediction of the future buddha, Maitreya. The biographies contain other information, such as how long each buddha lived, how each predicted the eventual appearance of Shakyamuni Buddha, what social class the buddha was born into, and how long his teachings endured"-- Provided by Library of Congress Asian Division staff.

Created / Published

[Gandhara] : [producer not identified], [approximately 1st century B.C.-approximately 1st century A.D.]

Subject Headings

-  Buddhas--Early works to 1800

-  Manuscripts, Kharoṣṭhi--Washington (D.C.)

-  Manuscripts, Prakrit--Washington (D.C.)

Notes:

-  Title devised by cataloger.

-  This scroll on birch bark originates from the ancient Buddhist region of Gandhara (Pakistan and Afghanistan today) and is one of the oldest known Buddhist manuscripts. It is written in the Gandhari Prakrit language in Kharoshthi script, which is read from top to bottom and right to left. Because the scroll contains writing on both sides, the scribe would have flipped the scroll vertically to continue writing on the verso.

-  Manuscript is in six large fragments and approximately 130 smaller fragments; mostly complete with the very beginning and end missing. Fragments are stored flat in two custom clamshell boxes measuring 73.5 x 45 x 7.8 cm. One box contains the six large fragments and the other box contains the smaller fragments.

-  Digitized images of this manuscript reflect the number, orientation, and order of fragments upon its unrolling and preservation in glass casing. In the image of the recto of the six large fragments, the three smallest fragments should be rotated 180 degrees to read the scroll.

-  Described in: Krueger, Holly H. "Conservation of the Library of Congress' Gandhara Scroll: a Collaborative Process." The Book and Paper Group annual, 27 (2008).

-  Described in: Salomon, Richard. "One Buddha, 15 Buddhas, 1,000 Buddhas.” Recorded November 15, 2018 at the Library of Congress. Running time: 75 minutes.

 

Medium:  1 scroll.

Call Number/Physical Location: BQ4670 .G36

Library of Congress Control Number: 2018305008

Access Advisory: Restricted access; material extremely fragile; please use online digital image.

Language: Prakrit Languages

Online Format:  Image

Description:  Contains information on the parallel lives of fifteen buddhas: Dīpaṅkara, Sarvābhibhū, Padmottara, Atyuccagāmin, Yaśottara, Śākyamuni [I], Tiṣya, Vipaśyin, Śikhin, Viśvabhū, Krakucchanda, Konākamuni, Kāśyapa, Śākyamuni [II] (also known as Siddhartha Gautama), and Maitreya. The scroll gives the buddhas' predictions of Śākyamuni's future coming as the Buddha; his four courses of training under the other buddhas; their lifespans; eons in which they lived; social class into which they were born; their assemblies of disciples; and duration of their teachings. "The ancient kingdom of Gandhara (today's Afghanistan and Pakistan) is the source of the oldest Buddhist manuscripts in the world, as well as the oldest manuscripts from South Asia in existence. Acquired in 2003, the Library's Gandhara scroll roughly dates between the first century BCE and first century CE. Its language is Gandhari, a derivative of Sanskrit, and the script is called Kharoshthi. Scholars have informally called this scroll the Bahubuddha Sutra, or 'The Many Buddhas Sutra,' because it resembles a text with a similar name in Sanskrit. The scroll discusses the lives of fifteen buddhas. The text is narrated by Shakyamuni Buddha who gives very short biographies of thirteen buddhas who came before him, followed by his birth and emergence as Shakyamuni Buddha, and ending with the prediction of the future buddha, Maitreya. The biographies contain other information, such as how long each buddha lived, how each predicted the eventual appearance of Shakyamuni Buddha, what social class the buddha was born into, and how long his teachings endured"-- Provided by Library of Congress Asian Division staff.

LCCN Permalink
https://lccn.loc.gov/2018305008
Additional Metadata Formats
MARCXML Record - MODS Record -  Dublin Core Record.

IIIF Presentation Manifest:  Manifest (JSON/LD)
Part of :Asian Division (7,733)
Library of Congress Online Catalog (1,031,391)
Format : Manuscript/Mixed Material
Location: Washington D.C.
Language: Prakrit Languages
Subjects: Buddhas
Early Works to 1800 - Manuscripts, Kharoṣṭhi - Manuscripts, Prakrit - Washington (D.C.)
Featured in ; Library of Congress Blog
Now Online! The Gandhara Scroll, a Rare 2,000-Year-Old Text of Early Buddhism
Related Items :Conservation description from Book and Paper Group annual: Webcast video of "One Buddha, 15 Buddhas, 1,000 Buddhas":


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13049)
Theo Luận Ðại thừa khởi tín, Nhứt Tâm có hai tướng: (1) tướng Chân như, chỉ riêng về phần thể tánh chơn tâm thanh tịnh; dụ như "tánh trong sạch" của nước...
(Xem: 26980)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 32828)
Acarya Nagarjuna (A Xà Lê Long Thọ) giữ một địa vị hầu như vô song trong hàng các bậc Thánh Phật giáo trình bày xiển dương lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni cho lợi lạc của thế giới.
(Xem: 31617)
Bố thí là hạnh đầu tiên trong sáu hạnh của Bồ Tát. Nguyên âm chữ Phạn là Dàna có nghĩa là sự cho, dịch sang tiếng Hán Việt là Bố thí.
(Xem: 32545)
Bát Chánh Đạo rất dễ nhớ, nhưng ý nghĩa của chúng thâm sâu và đòi hỏi một sự hiểu biết về nhiều lãnh vực liên quan trong giáo lý của Đức Phật.
(Xem: 12997)
Có nhiều loại giác ngộ, nhưng bản chất của giác ngộ thì chỉ có một, đó là phá vỡ bức tường ngăn ngại của vô minh để ánh sáng của tự tánh, Phật tánh được dịp bùng lên.
(Xem: 12127)
Lời dạy của đức Phậtpháp môn phương tiện, chứ không phải là chân lý. Vì vậy, học Phật là học pháp môn để tu tập, để chuyển hóa tâm thức, lời nói...
(Xem: 17463)
Không gian nhận thức bị giới hạn, vì thế nó hữu hạn. Khi bạn ngồi trong lớp học, không gian nhận thức bị bao bọc bởi các bức vách, nền nhà và trần nhà.
(Xem: 18692)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 12537)
Trong kinh Phật có dạy: Chúng ta phải cố gắng tu không thể chần chờ, bởi vì đâu có ai bảo đảm mình sống đến tám mươi tuổi mới chết. Trẻ có cái chết của trẻ...
(Xem: 11742)
Ý thứcvọng tưởng, là những mảnh vụn của tâm thể, là những áng mây đen che mờ mặt trăng tuệ giác, là những lượn sóng dấy động trên mặt biển chân tâm thanh tịnh...
(Xem: 13093)
Đức Phật dạy có năm sự khéo léo trong giao tiếp đem đến nhiều kết quả tốt đẹp. Theo ngài Xá Lợi Phất, không tuân theo năm cách xử sự này sẽ đem đến những hậu quả...
(Xem: 12175)
Trong đời sống chúng ta ai cũng có bản năng tự nhiên mong được hạnh phúc và thoát được đau khổ. Mong cầu được sung sướng là điều chính yếu của tất cả mọi người.
(Xem: 12466)
Khi ta cố chấp vào một sự việc thì tế bào thần kinh không có sự ráp nối dồi dào, khiến ta không nhận biết được những dữ kiện khác của sự thật. Ta trở thành người mù sờ voi...
(Xem: 11620)
Bằng Đạo Pháp, Phật mở ra cho ta một thế giới êm ả, an bìnhhạnh phúc, thay vì bước vào ta lại bước ra. Cái cánh cửa của thế giới đó ta không thấy...
(Xem: 11959)
Tôn chỉ Phật giáochí hướng cao siêu của một chân lý. Chí hướng của Phật là "Tự Giác Giác Tha", có nghĩa là tự mình giác ngộ, thức tỉnh trong giấc mộng vô minh...
(Xem: 10590)
Chúng ta tu Phật, nên biết nhân quả là một giáo lý căn bản của đạo Phật, không thể nào hiểu lơ là hay sơ sài, mà phải hiểu cho tường tận mới khỏi những ngờ vực.
(Xem: 10922)
Bởi con người mang sẵn tính tham lam, thói hèn nhát, nên khi muốn thỏa mãn sự mong cầu, muốn được bình an khi nguy hiểm, đều nảy sanh mê tín dị đoan.
(Xem: 28280)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 11153)
Ðạo Phật đã thấm sâu, đâm chồi, mọc rễ và lớn mạnh qua các lãnh vực văn hóa, gia đình, xã hội, nghệ thuật, kiến trúc... để hòa quyện thành nếp sống tâm linh tối thượng.
(Xem: 11345)
Sau khi thành đạo, Đức Phật đã phổ biến con đường giác ngộ cho nhiều người. Giác ngộvô cùng quí báu vì đó là con đường đưa đến sự giải thoát tối thượng của Niết bàn.
(Xem: 13565)
Tất cả mọi phương tiện đều để phục vụ mục tiêu chân lý của cuộc sống, như ngón tay để chỉ mặt trăng; ngón tay phương tiện để hướng đến mặt trăng chân lý.
(Xem: 11029)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm. Trong thời gian ấy, có lúc Phật giáo đưọc các vua chúa ủng hộ...
(Xem: 11419)
Ðạo Phật quan niệm mỗi cấp bực của sự sống đều mang một Thức tương ứng: cấp vi trùng vi khuẩn cũng có Thức của nó, cũng như mỗi tế bào, mỗi mô sinh vật cũng thế...
(Xem: 10888)
Giáo lý Phật giáo thiết lập trên nền tảng đau khổ của con người. Mặc dầu nhấn mạnh vào hiện hữu của sự khổ, nhưng Phật giáo không bao giờ là một giáo lý bi quan.
(Xem: 11170)
Chính thái độ hóa thần thông để giáo hóa chúng sanh đã làm nổi bật giá trị tâm lý hoằng phápĐức Phật của chúng ta đã dùng để hoằng hóa độ sanh.
(Xem: 26296)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
(Xem: 12364)
Hôm nay Đạo Phật đang chuyển đến một hướng mới, và có hàng ngàn người phương Tây đang cố gắng thực hành lời dạy của Đức Phật như một phương pháp sống.
(Xem: 14866)
Nghiên cứu Phật giáo từ quan điểm Hindu là một sự nghiên cứu của Ấn Độ giáo chứ không phải là Phật giáo. Thật sai lầm khi vay mượn để hỗ trợ quan điểm Hindu hiện đại...
(Xem: 11036)
Các Luận sư A-tì-đàm đã thấy rõ những nạn đề đặt ra cho nhận thức về quan hệ nhân quả, cho nên họ đưa ra một khung đề nghị là có năm loại kết quả khác nhau...
(Xem: 20309)
Tâm đại từ bi có hai tính cách: Tính cách cứu khổ thì thay thế chúng sinh mà chịu mọi khổ não cho họ; tính cách cho vui thì có thể bỏ hết tất cả phước lạc mà cho chúng sinh.
(Xem: 12338)
Trong lịch sử tư tưởng của Tánh Không luận, khởi đầu là sự tranh luận về điểm: có nên thừa nhận có một Bản ngã (Pdugala) hay không? Sự tranh luận này được khởi đầu...
(Xem: 11450)
Trước khi nói đến lộ trình của sự tạo nghiệp, cũng cần đề cập đến câu “nhất thiết duy tâm tạo” trong tư tưởng kinh Hoa Nghiêm của Phật giáo để thấy rõ bản chất của nghiệp...
(Xem: 10746)
Con người thoát khỏi tham lam, thù hận và si mê nhiều chừng nào thì hạnh phúc càng gia tăng chừng đó. Niết-bàn sẽ hiện hữu ngay từ bước khởi đầu và rồi thăng tiến...
(Xem: 23885)
Nguyên-thỉ hay cận-đại Phật-giáo vẫn là Phật-giáo, nghĩa là vẫn có mục-đích giải-thoát diệt khổ, vẫn tôn trọng sự sống và chân-lý, vẫn chủ trương từ-bi tế-độ.
(Xem: 11829)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch: Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp"...
(Xem: 12275)
Đức Phật tướng hảo trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất nhiều...
(Xem: 12801)
Là đóa hoa ưu tú, tinh ba của dân tộc, là bậc kiệt xuất anh tài của Phật Giáo Việt Nam, sử gia Lê Mạnh Thát đã khai quật những nguồn tài liệu vô cùng quý giá...
(Xem: 11033)
Phong trào phục hưng đạt được động lực khi một số người con của đất nước trở thành những Tăng sĩ Phật giáophục sinh lại sự quang vinh cổ thời của Tăng già.
(Xem: 38684)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 10516)
Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật...
(Xem: 12164)
Giữa thế kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ I sau công nguyên, hai thuật ngữ Đại thừa (Mahayana) và Tiểu thừa (Hinayana) xuất hiện trong Diệu pháp liên hoa kinh...
(Xem: 17681)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 24994)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 10529)
Những kẻ bị phiền não khổ đau, Phật giáo đã chỉ cho họ con đường dẫn đến hòa bình, và hạnh phúc vĩnh cữu cùng giúp họ giải quyết mọi vấn đề phiền toái của cuộc sống.
(Xem: 10728)
Giáo lý đạo Phật được xem là một nền giáo lý thực nghiệm, nhằm giải quyết những vấn đề về con người, đưa con người thoát khỏi những khổ đau trói buộc...
(Xem: 12027)
Trước tiên đề cập vấn đề trên, có lẽ cũng nên xác định lại niên đại đản sinh của thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) và niên đại nhập diệt của đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni).
(Xem: 11291)
Hỷ là một trong bốn vô lượng tâm của nhà Phật. Hỷ là hoan hỷ, vui vẻ. Lòng người Phật tử bao giờ cũng hoan hỷ, và sẵn sàng san sẻ niềm hoan hỷ đó cho mọi người.
(Xem: 11562)
Tam pháp ấn và lý Tứ đế thì tương ứng nhau: chư hành vô thườngKhổ đế; nhân sanh khổ ở nơi không biết chư pháp vô ngã, là Tập đế; Niết bàn tịch tĩnhDiệt đế...
(Xem: 14712)
Trong kinh Chuyển Pháp Luân ngay sau khi Phật giác ngộ và kinh Di Giáo ngay trước khi Phật Niết-bàn, Ngài khuyên các đệ tử của Ngài là không nên xem bói toán, xem quẻ...
(Xem: 21418)
Hoa sen (tên khoa học là Nelumbo Nucifera) là loại hoa mọc lên từ rễ củ nằm dưới lớp bùn đất ở dưới nước, hoa thường có màu trắng, hồng, có khi phơn phớt vàng, xanh...
(Xem: 9870)
Sự chết của con người là một giai đoạn trong chu trình biến thiên bất tận sinh-lão-bệnh-tử. Đầu tiên, tim ngừng đập rồi đến phổi, sau đó đến não; cuối cùng cơ thể phân hủy.
(Xem: 11245)
Trong giáo lý căn bản của đức Phật, vô minh (avijja) là điểm khởi đầu của vòng tròn mười hai nhân duyên (paticca-samuppada) đưa tới sinh tử, khổ đau...
(Xem: 27338)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 11168)
Chúng sanh bị đọa địa ngục, đó là chúng sanh tâm bị đọa lạc vào địa ngục tham, sân, si phiền não. Muốn giải phóng chúng sanh tâm, phải dùng tự tánh Địa Tạng của chính mình.
(Xem: 11820)
Nhà Phật có xác định sáu nguyên tắc để sống trong hòa hợp (Lục hòa). Vốn là để cho tăng già, nhưng nới rộng ra, đối với bất cứ một nhóm người nào cùng chung sống...
(Xem: 10996)
Chân dung toàn cảnh về Học phái Phật giáo cho chúng ta cái nhìn mà qua đó Phân kỳ Phật giáo có thể chia làm 3 thời kỳ, đó là Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Phát triển...
(Xem: 14287)
Đàn tràng chẩn tế cũng gọi là Trai đàn vì lấy sự trang nghiêm thanh tịnh làm gốc để nhất tâm hồi hướng cho cô hồn, ngạ quỷ được ân triêm công đức.
(Xem: 11460)
Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốt hay Phật xá lợi. Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng...
(Xem: 12619)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant