Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Thư Viện Quốc Hội Mỹ Đã Công Bố Một Văn Bản Quí Hiếm Từ 2.000 Năm

18 Tháng Giêng 202005:18(Xem: 4152)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ Đã Công Bố Một Văn Bản Quí Hiếm Từ 2.000 Năm

Library of Congress : A rare 2,000year old scroll about
the early years of Buddhism is made public

(THƯ VIỆN QUỐC HỘI MỸ ĐÃ CÔNG BỐ
MỘT VĂN BẢN QUÍ HIẾM TỪ 2.000 NĂM
ĐƯỢC XEM NHƯ BUỔI BÌNH MINH CỦA PHẬT GIÁO RA CÔNG CHÚNG) .

By Allen Kim  - CNN - Trịnh Khải Hoàng chuyển Việt ngữ
Updated 0004 GMT (0804 HKT) July 30, 2019
A portion of the Gandhara scroll from the Library of Congress.

 
cay bach duong

(Nguồn CNN) Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta có thêm một cái nhìn thoáng qua về Lịch Sử Phật Giáo  trong những năm hình thành sớm nhất .  Cuộn sách có nguồn gốc ở Gandhara thuộc một khu vực Phật Giáo cổ ở miền bắc Afghanistan và Pakistan.  Chỉ có vài trăm bản thảo Gandharan được các học giả trên toàn thế giới biết đến, và mỗi bản đều quan trọng để hiểu được sự phát triển ban đầu của Văn Học Phật Giáo.  Với phương pháp phân tích ngôn ngữ, các học giả nghiên cứu các bản thảo này để lập biểu đồ về sự truyền bá của Phật Giáo khắp châu Á. Bản văn Gandhara thuật lại bởi Siddhartha Gautama  Sakya Muni (Đức Phật Thích Ca Mâu Ni) nhà sáng lập Phật Giáo và kể câu chuyện về 13 vị Phật  trước Ngài, sự xuất hiện của chính Ngài và thọ ký về một vị Phật tương lai. Đức Phật giảng thuyết về mỗi vị Phật sống được bao lâu, tầng lớp xã hội mà mỗi vị Phật được sinh ra và thời gian giáo hoá  đều được ghi chép trong văn bản cổ này .

 

Ông Jonathan Loar - Quản Thủ Thư Viện Quốc Hội Mỹ cũng  là thủ thư tham khảo tại Phân Khu Châu Á tại Thư Viện cho biết trong một tuyên bố nói với phóng viên CNN: "Cuộn sách được bảo quản rất tốt nhờ vào công việc của những người bảo quản Thư Viện, nhưng nó vẫn rất mỏng manh !  Đây là một đặc  phẩm độc đáo, bởi vì nó rất cũ so với các bản thảo tương tự và như vậy, nó mang lại cho chúng ta về mặt Lịch Sử, tương đối gần với thời đại của Đức Phật Sakya Muni  và hiện tại thư viện giữ lại được gần 80% văn bản gốc, chỉ thiếu phần đầu và phần cuối. Hầu hết các cuộn Gandharan khác được các học giả biết đến đều rời rạc hơn…Tôi muốn tìm cách chia xẻ tài liệu quí hiếm vô cùng độc đáo này với công chúng … Được mua vào năm 2003 từ một nhà sưu tập tư nhân, cuộn giấy là một trong những mảnh phức tạp và dễ vỡ nhất mà Thư Viện Quốc Hội đã từng bảo quản. Các chuyên viên bảo quản tài liệu thư khố, phải mất vài năm khảo sát và nghiên cứu mới phát minh ra phương pháp “điều trị” và họ đã thực hành các kỹ thuật không kiểm soát trên miếng thuốc lá xì gà khô. Việc nghiên cứu và bảo quản văn bản cổ này sẽ không bao giờ có thể làm được nếu không có các điều kiện tối ưu dành cho việc bảo tồn văn bản được lưu trữ… Có  một lý do là các cuộn giấy Gandharan, giống như cuộn cổ thư này tại Thư Viện Quốc Hội, trước  kia từ xa xưa thường được chôn trong các bình đất nung và được đặt trong một bảo tháp, cấu trúc hình mái vòm thường chứa các văn bản hoặc thánh tích của Phật Giáo và còn  nguyên nhân khác nữa, là khí hậu tương đối cao, khô cằn của vùng Gandharan giúp bảo tồn các vật liệu như bản thảo trên vỏ cây bạch dương này . Mặc dù bản thảo quá mỏng manh để hiển thị công khai, nhưng bằng phương pháp chụp ảnh kỹ thuật số với độ phân giải cao thì Văn Bản Cuộn Gandhara của Thư Viện có thể chia xẻ  phần Lịch Sử quan trọng này với công chúng…”.


Tóm lược: Chứa thông tin về cuộc đời của mười lăm Phật: Dpaṅkara, Sarvābhibhū, Padmottara, Atyuccagāmin, Yaśottara, Śākyamuni và Maitreya (8 Vị theo Nikaya) . Cuộn sách đưa ra dự đoán của chư vị cổ Phật giáo thuyết về tương lai của Śākya Muni sẽ thành Phật, bốn khóa đào tạo của đức Phật Sakya Muni dưới các vị Phật khác; tuổi thọ của họ; những đời họ sống; tầng lớp xã hội nơi họ được sinh ra; hội chúng của các môn đệ; và thời lượng giảng dạy của họ.
 Vương quốc cổ đại Gandhara (ngày nay là Afghanistan và Pakistan) được xem là nguồn gốc của các bản thảo Phật Giáo lâu đời nhất trên thế giới, cũng như các bản thảo cổ nhất từ ​​Nam Á tồn tại. Được mua vào năm 2003, Gandhara của Thư Viện có niên đại khoảng giữa thế kỷ thứ nhất BCE và thế kỷ thứ nhất CE. Ngôn ngữ của nó là Gandhari, một từ phái sinh của tiếng Phạn, và chữ viết có tên là Kharoshthi. Các học giả đã gọi một cách không chính thức cuốn sách này là Bahubuddha Sutra, hay “The Many Buddhas Sutra”, vì nó giống với một văn bản có cùng tên. trong tiếng Phạn. Cuộn sách nói về cuộc đời của mười lăm vị Phật. Bản văn được thuật lại bởi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, người đưa ra những tiểu sử rất ngắn về mười ba vị Phật trước ngài, sau đó là sự ra đời và xuất hiện của Ngài, và kết thúc bằng sự thọ ký về tương lai của vị phật Maitreya (Phật Di Lặc). Các tiểu sử chứa thông tin khác, chẳng hạn như mỗi vị Phật sống được bao lâu, những vị Phật tiên đoán sự xuất hiện của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, xã hộiĐức Phật được sinh ra, và giáo lý của ngài tồn tại được bao lâu .


- Được cung cấp bởi nhân viên Thư Viện Quốc Hội.

- Xuất bản: Gandhara khoảng thế kỷ 1 trước Công nguyên - khoảng thế kỷ thứ nhất A.D.
- Tiêu đề:  Chư Phật.

- Công trình sớm đến 1800.

- Bản thảo, Kharoṣṭhi - Washington D.C.

- Bản thảo, Prakrit - Washington D.C.

 . Ghi chú:  Tiêu đề nghĩ diễn ra từ Catalog:

- Cuộn này trên vỏ cây bạch dương có nguồn gốc từ vùng Phật Giáo cổ xưa của Gandhara (Pakistan và Afghanistan ngày nay) và là một trong những bản thảo Phật giáo lâu đời nhất được biết đến. Nó được viết bằng ngôn ngữ Gandhari Prakrit trong kịch bản Kharoshthi, được đọc từ trên xuống dưới và từ phải sang trái. Bởi vì cuộn chứa chữ viết ở cả hai mặt, người ghi chép sẽ lật cuộn theo chiều dọc để tiếp tục viết trên ngược lại.

- Bản thảo có sáu mảnh lớn và khoảng 130 mảnh nhỏ hơn; Hầu hết hoàn thành với sự khởi đầu và kết thúc còn thiếu. Các mảnh vỡ được lưu trữ bằng phẳng trong hai hộp vỏ sò, có kích thước 73,5 x 45 x 7,8 cm. Một hộp chứa sáu mảnh lớn và hộp còn lại chứa các mảnh nhỏ hơn.

- Hình ảnh của Văn Bản này và phản ánh số lượng, định hướng và thứ tự các mảnh vỡ và bảo quản trong vỏ thủy tinh. Trong hình ảnh của trực tiếp của sáu mảnh lớn, ba mảnh nhỏ nhất phải được xoay 180 độ để đọc cuộn.

- Được mô tả trong: Krueger, Holly H. Bảo tồn thư viện Gandhara Scroll: một quá trình hợp tác.   Nhóm Sách và Giấy hàng năm, 27 (2008).

- Được mô tả trong: Salomon, Richard. "Một vị Phật, 15 vị Phật, 1.000 vị Phật. Ban ghi ngày 15 tháng 11 năm 2018 tại Thư viện Quốc hội. Thời gian chạy: 75 phút. Trung bình:1 cuộn.

Số điện thoại / Địa điểm

BQ4670 .G36

Thư viện số kiểm soát của Quốc hội

2018305008

Tư vấn truy cập:

Giới hạn truy cập; Chất liệu cực kỳ dễ vỡ; vui lòng sử dụng hình ảnh kỹ thuật số trực tuyến.

Ngôn ngữ Prakrit.

 

Định dạng trực tuyến: Sự miêu tả:

Chứa thông tin về cuộc đời sống của mười lăm (15) vị  Phật: Dpaṅkara, Sarvābhibhū, Padmottara, Atyuccagāmin, Yaśottara, Śākyamuni và Maitreya. Cuộn sách đưa ra dự đoán của chư Phật về tương lai của Śākyamuni sắp thành Phật; bốn khóa đào tạo của Ngài dưới các vị Phật khác; tuổi thọ của họ; những đời họ sống; tầng lớp xã hội mà họ được sinh ra; hội chúng của các môn đệ; và thời lượng giảng dạy của họ. "Vương quốc cổ đại Gandhara (ngày nay là Afghanistan và Pakistan) là nguồn gốc của các bản thảo Phật giáo lâu đời nhất trên thế giới, cũng như các bản thảo cổ nhất từ ​​Nam Á tồn tại. Được mua vào năm 2003, Gandhara của Thư viện có niên đại khoảng giữa thế kỷ thứ nhất BCE và thế kỷ thứ nhất CE. Ngôn ngữ của nó là Gandhari, một từ phái sinh của tiếng Phạn, và chữ viết có tên là Kharoshthi. Các học giả đã gọi một cách không chính thức cuốn sách này là Bahubuddha Sutra, hay 'The Many Buddhaas Sutra', vì nó giống với một văn bản có cùng tên. trong tiếng Phạn. Cuộn sách nói về cuộc đời của mười lăm vị Phật. Bản văn được thuật lại bởi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, người đưa ra những tiểu sử rất ngắn về mười ba vị phật đến trước ngài, sau đó là sự ra đời và xuất hiện của Ngài là Thích Ca Mâu Ni, và kết thúc bằng sự thọ ký về tương lai của vị Phật Di Lặc (Maitreya Buddha). Các tiểu sử chứa thông tin khác, chẳng hạn như mỗi vị phật sống được bao lâu, mỗi vị tiên đoán sự xuất hiện cuối cùng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, xã hội nào Phật được sinh ra, và giáo lý của ngài tồn tại được bao lâu”.

Được cung cấp bởi nhân viên Thư viện Quốc hội.

LCCN Permalink

https://lccn.loc.gov/2018305008

Định dạng siêu dữ liệu bổ sung

Bản ghi MARCXML

Bản ghi MODSBản ghi lõi Dublin: Library of Congress-MANUSCRIPT/MIXED MATERIAL  Gandhara scroll.
cay bach duongKinh Phật cổ viết trên vỏ cây bạch dương


(CNN)
The Library of Congress made public a rare 2,000-year-old text of early Buddhism on Monday, and it offers a glimpse into early Buddhist history during its formative years.

The scroll originated in Gandhara, an ancient Buddhist region in northern Afghanistan and Pakistan. Only a few hundred Gandharan manuscripts are known to scholars worldwide, and each is vital to understanding the early development of Buddhist literature. For instance, using linguistic analysis, scholars study these manuscripts to chart the spread of Buddhism throughout Asia.

The Gandhara text is narrated by Shakyamuni Buddha, the religious leader also known as Siddhartha Gautama, and tells the story of the 13 Buddhas who preceded him, his own emergence and the prediction of a future Buddha. Information on how long each Buddha lived, the social class they were born into and how long their teachings endured are all chronicled in the text.

 

 Buddhism Fast Facts

"This is a unique item because it is very old compared to similar manuscripts and, as such, it does bring us, historically speaking, relatively close to the lifetime of the Buddha," Jonathan Loar, reference librarian in the Asian Division at the Library of Congress, said in a statement.

The library's scroll retains nearly 80% of the original text, with only the beginning and end missing. Most other Gandharan scrolls known to scholars are more fragmentary.

"I wanted to find a way to share this incredibly unique item with the public," Loar told CNN. "The scroll is very well-preserved thanks to the work of the Library's conservators, but it is still incredibly fragile."

Purchased in 2003 from a private collector, the scroll is one of the most complicated and fragile pieces that the Library of Congress has ever treated. It took conservators several years to devise a treatment strategy, and they practiced unrolling techniques on dried-up cigars.

The treatment of the text would've never been possible if not for the unique conditions in which it was stored.

"One reason is that Gandharan scrolls, like the one at the Library of Congress, were typically buried in terra cotta jars and interred in a stupa, a dome-shaped structure often containing Buddhist texts or relics," Loar said. "Another reason is that the relatively high, arid climate of the Gandharan region helps preserve materials like manuscripts on birch bark."

Although the manuscript itself is too fragile for public display, by digitizing the text, the library is able to share this important piece of history with the public.

 

Library of Congress :MANUSCRIPT/MIXED MATERIAL: Gandhara scroll.

  Digitized scroll: Title:   Gandhara scroll.

 Summary:

 Contains information on the parallel lives of fifteen buddhas: Dīpaṅkara, Sarvābhibhū, Padmottara, Atyuccagāmin, Yaśottara, Śākyamuni [I], Tiṣya, Vipaśyin, Śikhin, Viśvabhū, Krakucchanda, Konākamuni, Kāśyapa, Śākyamuni [II] (also known as Siddhartha Gautama), and Maitreya. The scroll gives the buddhas' predictions of Śākyamuni's future coming as the Buddha; his four courses of training under the other buddhas; their lifespans; eons in which they lived; social class into which they were born; their assemblies of disciples; and duration of their teachings.

"The ancient kingdom of Gandhara (today's Afghanistan and Pakistan) is the source of the oldest Buddhist manuscripts in the world, as well as the oldest manuscripts from South Asia in existence. Acquired in 2003, the Library's Gandhara scroll roughly dates between the first century BCE and first century CE. Its language is Gandhari, a derivative of Sanskrit, and the script is called Kharoshthi. Scholars have informally called this scroll the Bahubuddha Sutra, or 'The Many Buddhas Sutra,' because it resembles a text with a similar name in Sanskrit. The scroll discusses the lives of fifteen buddhas. The text is narrated by Shakyamuni Buddha who gives very short biographies of thirteen buddhas who came before him, followed by his birth and emergence as Shakyamuni Buddha, and ending with the prediction of the future buddha, Maitreya. The biographies contain other information, such as how long each buddha lived, how each predicted the eventual appearance of Shakyamuni Buddha, what social class the buddha was born into, and how long his teachings endured"-- Provided by Library of Congress Asian Division staff.

Created / Published

[Gandhara] : [producer not identified], [approximately 1st century B.C.-approximately 1st century A.D.]

Subject Headings

-  Buddhas--Early works to 1800

-  Manuscripts, Kharoṣṭhi--Washington (D.C.)

-  Manuscripts, Prakrit--Washington (D.C.)

Notes:

-  Title devised by cataloger.

-  This scroll on birch bark originates from the ancient Buddhist region of Gandhara (Pakistan and Afghanistan today) and is one of the oldest known Buddhist manuscripts. It is written in the Gandhari Prakrit language in Kharoshthi script, which is read from top to bottom and right to left. Because the scroll contains writing on both sides, the scribe would have flipped the scroll vertically to continue writing on the verso.

-  Manuscript is in six large fragments and approximately 130 smaller fragments; mostly complete with the very beginning and end missing. Fragments are stored flat in two custom clamshell boxes measuring 73.5 x 45 x 7.8 cm. One box contains the six large fragments and the other box contains the smaller fragments.

-  Digitized images of this manuscript reflect the number, orientation, and order of fragments upon its unrolling and preservation in glass casing. In the image of the recto of the six large fragments, the three smallest fragments should be rotated 180 degrees to read the scroll.

-  Described in: Krueger, Holly H. "Conservation of the Library of Congress' Gandhara Scroll: a Collaborative Process." The Book and Paper Group annual, 27 (2008).

-  Described in: Salomon, Richard. "One Buddha, 15 Buddhas, 1,000 Buddhas.” Recorded November 15, 2018 at the Library of Congress. Running time: 75 minutes.

 

Medium:  1 scroll.

Call Number/Physical Location: BQ4670 .G36

Library of Congress Control Number: 2018305008

Access Advisory: Restricted access; material extremely fragile; please use online digital image.

Language: Prakrit Languages

Online Format:  Image

Description:  Contains information on the parallel lives of fifteen buddhas: Dīpaṅkara, Sarvābhibhū, Padmottara, Atyuccagāmin, Yaśottara, Śākyamuni [I], Tiṣya, Vipaśyin, Śikhin, Viśvabhū, Krakucchanda, Konākamuni, Kāśyapa, Śākyamuni [II] (also known as Siddhartha Gautama), and Maitreya. The scroll gives the buddhas' predictions of Śākyamuni's future coming as the Buddha; his four courses of training under the other buddhas; their lifespans; eons in which they lived; social class into which they were born; their assemblies of disciples; and duration of their teachings. "The ancient kingdom of Gandhara (today's Afghanistan and Pakistan) is the source of the oldest Buddhist manuscripts in the world, as well as the oldest manuscripts from South Asia in existence. Acquired in 2003, the Library's Gandhara scroll roughly dates between the first century BCE and first century CE. Its language is Gandhari, a derivative of Sanskrit, and the script is called Kharoshthi. Scholars have informally called this scroll the Bahubuddha Sutra, or 'The Many Buddhas Sutra,' because it resembles a text with a similar name in Sanskrit. The scroll discusses the lives of fifteen buddhas. The text is narrated by Shakyamuni Buddha who gives very short biographies of thirteen buddhas who came before him, followed by his birth and emergence as Shakyamuni Buddha, and ending with the prediction of the future buddha, Maitreya. The biographies contain other information, such as how long each buddha lived, how each predicted the eventual appearance of Shakyamuni Buddha, what social class the buddha was born into, and how long his teachings endured"-- Provided by Library of Congress Asian Division staff.

LCCN Permalink
https://lccn.loc.gov/2018305008
Additional Metadata Formats
MARCXML Record - MODS Record -  Dublin Core Record.

IIIF Presentation Manifest:  Manifest (JSON/LD)
Part of :Asian Division (7,733)
Library of Congress Online Catalog (1,031,391)
Format : Manuscript/Mixed Material
Location: Washington D.C.
Language: Prakrit Languages
Subjects: Buddhas
Early Works to 1800 - Manuscripts, Kharoṣṭhi - Manuscripts, Prakrit - Washington (D.C.)
Featured in ; Library of Congress Blog
Now Online! The Gandhara Scroll, a Rare 2,000-Year-Old Text of Early Buddhism
Related Items :Conservation description from Book and Paper Group annual: Webcast video of "One Buddha, 15 Buddhas, 1,000 Buddhas":


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 73)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 148)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 168)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 224)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 151)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 204)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 191)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 222)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 237)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 320)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 559)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 422)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 435)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 531)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 719)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 769)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 807)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 812)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 698)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 688)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 690)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 794)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 817)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 915)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 691)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 587)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 687)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 805)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 686)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 693)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 791)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 812)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 795)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 838)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 865)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 855)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1044)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 916)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1578)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1024)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1172)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 923)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1176)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1094)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1101)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1241)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1510)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1941)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1055)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1319)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1068)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 922)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1044)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1080)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1497)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1253)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1264)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 994)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1156)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant