Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Quan Niệm Về Đức Phật Theo Phật Giáo Nguyên Thủy

17 Tháng Tư 202019:37(Xem: 4737)
Quan Niệm Về Đức Phật Theo Phật Giáo Nguyên Thủy
Quan Niệm Về Đức Phật Theo Phật Giáo Nguyên Thủy  

Thích Trung Định

Già Lam  Hương Thiền

Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát. Khi nhìn nhận về đức Phật thì có những sự tương đồng và dị biệt trong các quan điểm lập trường của từng bộ phái Phật giáo. Trong thời kỳ phân chia bộ phái Phật giáo kể từ sau kỳ kết tập kinh điển lần hai tại Vaisali, 100 năm sau khi đức Phật diệt độ, Thượng tọa bộĐại chúng bộ, rồi sau đó là 20 bộ phái phát sinh đều có những quan điểm tương đồng và dị biệt. Ở đây, chúng tôi muốn tìm hiểu về sự tương đồng và dị biệt trong cách nhìn nhận về đức Phật trong hai trường phái Phật giáo lớn hiện nay, đó là Phật giáo Nguyên thủyĐại thừa.

Trong những giai đoạn gần đây nhiều bậc Tôn túc và những nhà Phật học đều tìm cách lý giải sự tương đồng giữa quan điểm của Phật giáo Nguyên thủy và Phát triển. Danh từ Đại thừa (Mahayana) và Tiểu thừa (Hinayana) không còn hợp lý trong giai đoạn hiện tại. Thay vào đó người ta thường sử dụng danh từ Phật giáo Nguyên thủyPhật giáo Phát triển hoặc thường sử dụng danh từ Phật giáo Nam tôngBắc tông để đi đến sự thống nhất một cây Phật giáo có đầy đủ gốc rễ và thân cành lá trọn vẹn, hoàn thiện trong ý nghĩa giá trị thực tiễn của nó. Tuy nhiên, cho dù có sự nỗ lực lớn trong sự dung hòa, nhưng đã có sự sai biệt trong việc lý giải một số quan điểm Phật học. Hiện nay trên thế giới chỉ còn tồn tại ba trường phái Phật giáo lớn đó là Nguyên thủy, Đại thừaKim cang thừa. Cả ba trường phái đều lấy đức Phật Thích Ca là vị Phật sáng lập Phật giáo. Tuy nhiên cách nhìn nhận về đức Phật và lời dạy của Ngài vẫn có những điểm sai biệt. Chúng ta sẽ thấy rõ trong sự trình bày dưới đây.

Phật giáo Nguyên thủy dựa vào nguồn kinh tạng Pāli làm nơi y cứ chính yếu. Truyền thống Phật giáo này hiện đang phát triển mạnh ở một số quốc gia như Srilanka, Thái Lan, Miên Ma, Lào và Campuchia. Theo lý giải của đạo Phật Nguyên thủy, phẩm chất của Đức Phật thường được tìm thấy trong kinh Pāli rõ ràngsùng kính, cũng như được phản ánh trong những thán từ sử dụng cao quý nhất dành cho Đức Phật. “Ở đây, này các Tỷ kheo, một đệ tử cao quý được xác nhận về Đức Phật như vậy: “Như Lai là một bậc A-la-hán Chánh Đẳng Chánh Giác. Thành tựu trọn vẹn về đức hạnhtrí tuệ. Như Lai Thế Tôn, người biết rõ về thế giới, đấng Điều ngự trượng phu, bậc Thầy của nhân thiên, đấng giác ngộ toàn vẹn, là Thế Tôn.” Trường phái này còn xem Đức Phật liên quan đến Giáo Pháp, hay Ngài là hiện thân của giáo pháp. “Bản chất của Đức Phật được xem là liên hệ chặt chẽ với Giáo pháp, theo nghĩa của giáo lý của Ngài, con đường dẫn đến mục tiêu cao quý nhất của Phật giáo, và mục tiêu này chính nó là Niết-bàn tối thượng.

Phật giáo Nguyên thủy chú ý đến những học thuyết cao sâu giải thích về bản chất của mọi hiện tượng giới. Đó là pháp. Ai thấy Giáo Pháp là nhìn thấy Đức PhậtKinh tạng theo truyền thống Nguyên Thủy đều nhấn mạnh đến giáo lý duyên khởi. Tất cả các pháp đều do duyên sinh. Nên ai thấy duyên khởi là thấy pháp và ai thấy pháp là thấy Như Lai“Chư pháp tùng duyên sinh, diệc phục tùng duyên diệt, ngã Phật đại Sa môn, thường tác như thị thuyết.” Lý giải Phật học sâu sắc này cũng được tìm thấy trong các bản kinh của Phật giáo Đại Thừa, nhất là trong kinh Kim Cang cũng trình bày nội dung tương tự, nhưng với một văn phong khác hơn mang tính biện chứng cao của triết học Phật giáo.

Truyền thống này nhấn mạnh đến pháp tức pháp thân. Khác với học thuyết Tam thân của Phật giáo Đại thừa. Thay vì lý giải về tam thân, Nguyên thủy Phật giáo chú trọng đến Pháp thân như là cách thức hữu hiệu và trọn vẹn nhất khi nhìn nhận về Đức Phật. Không những thế, trường phái này còn đi xa hơn trong khi minh định về lời dạy của ngài. Đó là Chư Phật như đã trở thành Pháp. Trong một đoạn kinh, A-la-hán Mahā-kaccāna mô tả Đức Phật là nguồn giải thích của Pháp. Người biết được, người được phước báu để thấy, người nhìn thấy; người mở ra tầm nhìn, trở thành tri thức, trở thành Giáo Pháp, trở thành cao nhất, Ngài là người nói pháp, người tuyên bố pháp, người làm sáng tỏ ý nghĩa, người đưa đến đoạn tận Niết bàn, bậc Thầy của Pháp, là Như Lai (Tathāgata).

Đức Phật như sự thị hiện của Pháp

          Nhiều đoạn kinh được tìm thấy trong văn học Pāli giới thiệu thuật ngữ phức hợp ‘dhamma-kāya’ (Pāli, Skt dharma-kāya), được phản ánh nhiều và mở rộng trong Phật giáo Đại thừa (Mahāyāna). Kāya có nghĩa là “Thân”. Nhưng có thể có nghĩa là ‘bộ sưu tập’, bao gồm một tập hợp các phẩm chất tâm linh. Trong một hợp chất, người ta không thể biết được từ đầu tiên là số ít hay số nhiều, do đó, dhamma có thể có nghĩa là Pháp, hay phẩm chất được phát triển trên con đường. Trong đoạn đầu tiên, hợp chất này là tính từ và dường như có nghĩa là Đức Phật là một người có ‘phẩm chất’ của Pháp, tức là nhân vật, là Pháp. Ngài là một người có phẩm chất Pháp, và là hiện thân của Giáo Pháp. Trong đoạn thứ hai, trong đó hợp chất là danh từ, vị A-la-hán ni Mahā-pajāpatī, mẹ kế của Đức Phật, nói với Đức Phật. “Vāseṭṭha, người có đức tin vào Như Lai đã bắt rễ và trở nên thành lập, vững chắc, không lay chuyển được bởi bất kỳ người xuất gia, brahmin, thần, māra hay brahmā hay bất kỳ người nào khác trên thế giới, nó phù hợp để nói: “Tôi là người hợp pháp con của Đức Thế Tôn, sinh ra từ miệng của Ngài, được sinh ra bởi Giáo Pháp, được tạo ra bởi Giáo Pháp, người thừa kế Giáo Pháp. Lý do cho điều này là gì? Bởi vì, Vāseṭṭha, đây là những chỉ định của Như Lai, ‘người có thân thể’ (phẩm chất) là Giáo Pháp (Dhamma-kāyo), người có thân thể (phẩm chất) là cao nhất (brahmā), ‘trở thành Pháp,’ trở thành cao nhất.” Như vậy, Đức Phật là sự hiện thân của giáo Pháp. Hay giáo Pháp chính là Đức Phật. Người tuyên bố pháp, giống lên tiếng nói chân lý, xua tan mọi tà thuyết.

Phật tính (Buddha nature)

Phật tính là tố chất Phật đang tiềm ẩn trong mỗi chúng sinh. Ai cũng có tố chất này. Nếu biết tu tập, phát triển tố chất này thì người đó trở thành hoàn thiện, viên mãn. Còn nếu để vô minh, tham ái che lấp thì khó để tố chất này lộ diện.

Một đoạn kinh đặt vấn đề, Phật có phải là một con người không? Nhiều bài kinh đề cập đến ‘ba mươi hai đặc điểm của một người vĩ đại’, rằng một vị Phật là một vị hoàn thiện trọn vẹn về đạo đứctrí tuệ. Ngài khởi động bánh xe chánh pháp, giới thiệu giáo lý thậm thâm vi diệu mà Ngài chứng ngộ được. Điều này cho thấy rằng ngay cả thân thể vật chất của Đức Phật cũng được xem là kỳ diệu, và như bị ảnh hưởng về mặt nghiệp lực bởi những sự hoàn hảo của Ngài được xây dựng lên qua nhiều kiếp. Trong một đoạn kinh nổi bật, một vị Bà la môn nhìn thấy một trong ba mươi hai đặc điểm nổi bật của ngài đó là dấu chân có hình bánh xe, và nghĩ rằng một vị như vậy không thể là con người bình thường. Sau đó, ông gặp Đức Phật và hỏi rằng liệu Ngài có thể là một vị thần, một Càn thát bà, hay một con người. Đức Phật nói rằng Ngài không phải là một trong số này (và cũng không có cuộc sống tương lai mà ngài sẽ là bất kỳ ai trong số họ) nhưng, đứng trên thế giới tồn tại của mọi hiện hữu, chính xác Ngài là một vị Phật. Sau đó, Bà la môn Doṇa, theo dấu chân của Đức Phật, thấy Ngài ngồi ở gốc cây: duyên dáng, truyền cảm hứng, với những đệ tử yên bình và tâm an lạc, đạt được sự kiểm soát tối đa và yên tĩnh, (như) một con voi chúa được bảo vệ. Ông ta đi tới và nói: “Thưa Ngài, Ngài có phải là một vị thần không? Không, brahmin, tôi  không phải là một vị thần. Ngài có phải là một vị Càn-thát-bà không? Không, brahmin, tôi không phải là một Càn-thát-bà không. Ngài có phải là một tinh thần tự nhiên? Không, brahmin, tôi cũng không phải là một tinh thần tự nhiên. Vậy Ngài có thể là một con người? Không, brahmin, tôi không phải là một con người. Những nguyên nhân đưa đến thần, Càn thát bà, loài người Ta đã đoạn tận. Ta là một vị Phật, giống như hoa sen, sinh ra từ bùn, lớn lên trong bùn nhưng không ô nhiễm mùi bùn. Ta sinh ra trong đời, lớn lên trong đời, nhưng không ô nhiễm mùi đời.

Theo quan điểm của Phật giáo Nguyên thủy, sự thành tựu trọn vẹn về tướng hảo của Đức Phật đều do Ngài đã tu từ vô lượng kiếp trước. Và Ngài là người dẫn dắt chúng đệ tử đi theo con đường giác ngộgiải thoát như Ngài.

Những câu chuyện tiền thân trong Jātaka và những sự hoàn hảo của Đức Phật hiện tại của chúng ta được thấy đã gặp một vị Phật quá khứ nhiều đời trước đây, và đã quyết tâm trở thành một vị Phật như Ngài. Sau đó, Ngài đã nỗ lực thực hành con đường Bồ tát đạo trải qua vô lượng kiếp đến nay mới thành tựu trọn vẹn. Phần jātaka Pāli Canon chứa 547 câu chuyện ghi lại bằng thơ, và văn xuôi bình luận mở rộng những câu chuyện này thành một loạt các câu chuyện về đạo đức, mà không nghi ngờ gì đã thu hút và điều chỉnh những câu chuyện dân gian Ấn Độảnh hưởng trong tác phẩm này.

Một số câu chuyện trong Jātaka minh họa mười ‘sự hoàn hảo’ của Bodhisatta về sự rộng lượng, kỷ luật đạo đức, sự từ bỏ, trí tuệ, sức sống, sự chấp nhận của bệnh tật, sự trung thực, quyết tâm kiên quyết, lòng tốtlòng nhân ái. Mỗi trong số này được cho là tồn tại như một sự hoàn hảo, sau đó là một ‘sự hoàn hảo cao hơn’ (upapāramī), sau đó là một ‘sự hoàn hảo tối thượng’ (paramattha-pāramī; Buddhavaṃsa). Đây là một sự khác biệt khá lớn giữa một vị Phật độc giác và một vị Phật hoàn hảo. Trong rất nhiều câu chuyện tiền thân của đức Phật đều mô tả về công hạnh tu tập Ba la mật của Bồ tát.

Bản chất của vị A la hán

 Những đoạn kinh văn ngắn gọn mô tả bản chất của một vị A-la-hán “Arahant”. Nghĩa đen là “bậc ứng cúng”, nghĩa là xứng đáng được sự cúng dường của trời người. Và là người đã làm xong mọi việc, không còn tái sanh trở lại trong đời. Vị đã đạt đến cảnh giới Niết bàn, không còn thọ báo sự khổ đau trong luân hồi sanh tử. “Này Xá-lợi-phất, ta nói rằng, những gì là A-la-hán? Đó là sự đoạn tận chấp trước, sự hủy diệt sự ghét bỏ, sự phá hủy ảo tưởng, đây được gọi là A-la-hán.” (Arahantta Sutta: Saṃyutta-nikāya IV.252, trans. P.H.) Hay khác hơn đó là: sự an tịnh tâm hành, an tịnh khẩu hành và an tịnh ý hành, như vậy vị ấy đạt được sự thanh tịnhgiải thoát, giải thoát tri kiến.

Theo truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy, một vị A-la-hán đã đoạn tận mười kiết sử gồm: thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục, sân, hữu ái, vô hữu ái, mạn, trạo cử, vô minh. Tức đoạn tận năm hạ phần kiến sử và năm hạ phần kiết sử. “Phạm hạnh dĩ thành, bất thọ hậu hữu.” Một nơi khác mô tả A-la-hán có ba nghĩa: nhất phá tam độc tặc, nhị ứng nhơn thiên cúng và tam lai thế bất sanh.

A-la-hán được gọi là Sandhicchedo, nghĩa đen, người đã phá dỡ nhà, nghĩa là người đã chặt đứt mọi ràng buộc, tức là người đã phá tan căn nhà do tham ái thiết kế và do nghiệp xây dựng. A-la-hán cũng được gọi là Hatāvakāso, nghĩa đen, người bỏ lỡ mọi cơ hội hay những dịp may có thể được lợi v.v... Bởi lẽ các Bậc A-la-hán không tạo cơ hội cho sự kéo dài mãi của hệ lụy, nên các Ngài được gọi là người hủy diệt mọi cơ hội. Sau khi đã tẩy trừ mọi tham ái bằng đạo tuệ Siêu Thế cao nhất (A-la-hán đạo), và nhờ đó trở thành một Bậc không tin tưởng mù quáng, Bậc thông hiểu vô sanh, Bậc phá hủy ngôi nhà gọi là luân hồi, và Bậc đã giết chết mọi cơ hội; vị ấy xứng đáng là Bậc tối thượng nhân (Uttamapuriso), Bậc vô dục (Vitaraga), tức là người không còn đi tìm bất cứ cái gì để làm thỏa mãn các giác quan.

Phật giáo Nguyên thủy cho rằng, quả vị cao tột nhất trong con đường tu tập đó là đạt đến thánh vị A-la-hán. Đức Phật cũng là bậc A-la-hán, nhưng là A-la-hán chánh đẳng giác. Ngài đã đoạn tận mọi lậu hoặc. Tưng Ưng Bộ Kinh III, phẩm ‘Tham Luyến’, phần ‘Chánh Đẳng giác’ định nghĩa: “Như Lai, này các Tỷ-kheo, là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, do yếm ly, ly tham, đoạn diệt sắc, được gọi là bậc Giải Thoát, không có chấp thủ, Chánh Đẳng Giác.”

Theo Bhikkhu Bodhi, Phật giáo Bắc tạng có sự phân biệt lớn giữa quả vị A-la-hán và Phật. Nhưng trong kinh tạng Pāli sự khác biệt này là không nhiều. Một mặt, Đức Phật là một vị A-la-hán, như là điều hiển nhiên từ câu tiêu chuẩn của sự kính trọng với Đức Thế Tôn (iti pi so bhagavā araham sammā sambuddho ...); mặt khác, vị A La Hán là Phật, trong ý nghĩa rằng vị ấy đã đạt tới sự toàn giác, tam miệu tam bồ đề (Sambodhi), bằng cách giác ngộ các chân lý tương tự mà chính Đức Phật đã nhận ra. Có sự khác biệt nhỏ ở đây là giữa thuật ngữ Tam Miệu Tam Bồ Đề (Sambuddha Samma) và Thế Tôn Chánh Đẳng Chánh Giác. Một vị A-la-hán đã đạt được giác ngộgiải thoát như một người đệ tử (savaka) của một vị Phật Hoàn Hảo Giác Ngộ. Và vị Phật là người phát hiện ra con đường giác ngộ ấy rồi chỉ dạy cho hàng đệ tử tuân thủ thực hành theo. Tuy nhiên, để tránh sự phức tạp thêm, chúng ta nên phân biệt về mặt giải thoát chứng đắctuệ giác giữa một vị Phật và A-la-hán.

Về mặt giải thoát, tất cả các vị A-la-hán, Chánh Đẳng Giác trong quá khứ, tất cả vị Thế Tôn này đã diệt trừ Năm Triền cái, những nhiễm tâm khiến cho trí tuệ yếu ớt, đã an trú tâm vào Bốn Niệm xứ, đã chân chánh tu tập Bảy Giác chi, đã chứng được Vô thượng Chánh Đẳng Giác. Những điều này, tuy nhiên, những khía cạnh của con đườngĐức Phật đã hoàn thành chung với các đệ tử A-la-hán. Tức đồng đẳng về mặt giải thoát.

Kinh tạng Nikāya đề cập đến sự khác biệt như giữa Như Lai Thế tôn, các vị A-la-hán, là “Một bậc Thế Tôn Giác Ngộ’ và ‘một Tỷ kheo giải thoát bởi trí tuệ’: Này các Tỷ-kheo, đây là sự sai biệt, sự đặc thù, sự sai khác giữa Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác và bậc Tỷ-kheo được giải thoát nhờ trí tuệ.”

Một vị Phật có chức năng phát hiện và giảng giải con đường mà mình đã chứng ngộ. Vị ấy đã chứng ngộ giáo lý thậm thâm vi diệu và giảng dạy sự thậm thâm vi diệu của giáo pháp cho chúng đệ tử. Tức chư vị đệ tử điều dưới sự hướng dẫn của Phật.[14]

Thế Tôn phân biệt sự khác biệt giữa Thế Tôn và các đệ tử A-la-hán như vầy“Như Lai, này các Tỷ-kheo, là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, làm cho khởi lên con đường (trước kia) chưa khởi, là bậc đem lại con đường (trước kia) chưa được đem lại, là bậc tuyên thuyết con đường (trước kia) chưa được tuyên thuyết, bậc tri đạo, bậc ngộ đạo, bậc thuần thục về đạo. Còn này, này các Tỷ-kheo, các vị đệ tử là những vị sống theo đạo, tiếp tục thành tựu (đạo).”

Một vị Phật biết nhiều nhưng chỉ dạy những gì có ích cho sự tu tập giác ngộgiải thoát. Tương ưng bộ kinh (Saṃyutta Nikāya) ghi lại rằng, một lần Đức Phật trú tại Kosambi trong rừng Sisapā. Một hôm ngài lấy một vài lá Siṁsapā nằm rải rác trên mặt đất rồi đặt trong lòng bàn tay và hỏi mọi người. Này các Tỷ kheo lá trong lòng bàn tay của Ta là ít hay lá trong rừng Sisapā là ít? Tất cả mọi người đều trả lời rằng, lá trong lòng bàn tay Ngài là ít hơn lá trong rừng Sisapā. Phật dạy: “Đúng như vậy, này các Tỷ kheo, những điều ta biết là nhiều như lá trong rừng Sisapā, nhưng ta không giảng dạy, những điều ta giảng dạy chỉ như nắm lá trong lòng bàn tay. Và này các Tỷ kheo tại sao ta không giảng dạy chúng? Vì chúng không đưa đến lợi ích, chúng không phải là những điều thiết yếu đưa đến đời sống thánh thiện, không dẫn đến sự thanh tịnh, khinh an, đoạn tận, hiểu biết trọn vẹn, trí tuệ hoàn hảo, đạt đến Niết Bàn. Đó là lý do tại sao ta không giảng dạy chúng.[1]

Như Lai vô lượng như đại dương

Trong đoạn kinh văn, vị đạo sĩ Vaccahagotta hỏi Đức Phật về số phận của một người đã giác ngộ sau khi chết. Như Laitồn tại sau khi chết; không tồn tại sau khi chết. Vừa có vừa không tồn tại sau khi chết. Vừa không có, vừa không không tồn tại sau khi chết. Đức Phật không chấp nhận bất kỳ khả năng nào trong bốn khả năng được đề xuất và nói rằng việc hỏi về việc Như Lai đi về đâu sau khi chết là giống như hỏi một đám cháy bị dập tắt và ngọn lửa đi về đâu. Cho rằng “lửa” (nhiệt) được xem là một trong những yếu tố cấu thành của bất kỳ vật chất nào. Giống như một ngọn lửa không có nhiên liệu, hết nhiên liệu, một người như vậy không có nắm bắt có thể dẫn đến bất kỳ sự tái sinh nào. Ngay cả trong cuộc sống, họ được coi là ‘sâu sắc’ để hiểu như là đại dương, do đã từ bỏ bất kỳ chấp thủ nào, và do đó nhận dạng thông qua, năm hợp chất tạo nên cơ thể vật chấttinh thần của một con người. Milindapañha (tr.73), một văn bản hậu kinh điển nói rằng, Đức Phật vẫn ‘tồn tại’ là không thể định vị được, nhưng có thể được chỉ ra bằng phương tiện của bộ/bộ pháp (Dhamma-kāya), vì Ngài đã dạy Pháp.

Đoạn kinh mô tả như sau: “Này Vaccha, thôi vừa rồi, vô tri của Ông! Thôi vừa rồi, mê mờ (của Ông)! Này Vaccha, sâu kín là pháp này, khó thấy, khó giác ngộ, an tịnh, thù thắng, không thể luận bàn, tế nhị, chỉ bậc trí mới hiểu. Thật rất khó cho Ông có thể hiểu được, khi Ông thuộc tri kiến khác, kham nhẫn khác, lý tưởng khác, hành trì khác, Đạo sư khác. Và này Vaccha, nay Ta trở lại hỏi Ông. Hãy trả lời nếu Ông kham nhẫn. Này Vaccha, Ông nghĩ thế nào? Nếu một ngọn lửa cháy đỏ trước mặt Ông, Ông có biết: “Ngọn lửa này cháy đỏ trước mặt tôi?”

Tôn giả Gotama, nếu một ngọn lửa cháy đỏ trước mặt tôi, tôi có biết: “Ngọn lửa này cháy đỏ trước mặt tôi”.

– Nhưng nếu, này Vaccha, có người hỏi Ông như sau: “Ngọn lửa này cháy đỏ trước mặt Ông, ngọn lửa này do duyên gì mà cháy đỏ?”, nếu được hỏi vậy, này Vaccha, Ông trả lời như thế nào?

– Thưa Tôn giả Gotama, nếu có người hỏi tôi như sau: “Ngọn lửa này cháy đỏ trước mặt Ông, ngọn lửa này do duyên gì mà cháy đỏ?”, nếu được hỏi vậy, thưa Tôn giả Gotama, tôi sẽ trả lời như sau: “Ngọn lửa cháy đỏ trước mặt tôi, ngọn lửa này cháy đỏ do duyên nhiên liệu cỏ và củi”.

– Này Vaccha, nếu ngọn lửa ấy bị tắt trước mặt Ông, Ông có biết: “Ngọn lửa này đã tắt trước mặt tôi?”

Tôn giả Gotama, nếu ngọn lửa ấy được tắt trước mặt tôi, tôi sẽ biết: “Ngọn lửa này đã tắt trước mặt tôi”.

– Này Vaccha, nếu có người hỏi Ông như sau: “Ngọn lửa này đã tắt trước mặt Ông, ngọn lửa ấy từ đây đã đi về phương hướng nào, phương Đông, phương Tây, phương Bắc, hay phương Nam?”, được hỏi vậy, này Vaccha, Ông trả lời thế nào?

– Không có thể áp dụng ở đây, Tôn giả Gotama. Vì rằng, này Tôn giả Gotama, ngọn lửa ấy đã cháy vì duyên nhiên liệu cỏ và củi. Khi cỏ và củi ấy hết và vì không có nhiên liệu khác, nên được xem là không có nhiên liệu, đã bị tắt.

Cũng vậy, này Vaccha, do sắc pháp này, nhờ đó mà một người nhận biết Như Lai có thể nhận biết được, sắc pháp ấy đã được Như Lai đoạn diệt, cắt tận gốc rễ, làm cho như thân cây ta-la không được tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai. Giải thoát khỏi cái gọi là sắc, này Vaccha, là Như Lai, thâm sâu, vô lượng, khó dò đến đáy như đại dương. Khởi lên không có áp dụng, không khởi lên không có áp dụng, khởi lên và không khởi lên không có áp dụng, không khởi lên và không không khởi lên không có áp dụng. Do thọ, tưởng, hành và thức ấy đã được Như Lai đoạn diệt, cắt đứt được tận gốc rễ, làm cho như thân cây ta-la không được tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai. Giải thoát cái gọi là thức, này Vaccha, là Như Lai, thâm sâu, vô lượng, khó dò đến đáy như đại dương, khởi lên không có áp dụng, không khởi lên không có áp dụng, khởi lên và không khởi lên không có áp dụng, không khởi lên và không không khởi lên không có áp dụng.”[2]

Khi các nguyên nhân đã được đoạn diệt, một người đã chứng đắc vô lậu giải thoát, hoàn toàn cắt đứt mọi nguyên nhân của sự tồn tại, trở thành bậc thâm sâu vô lượng như đại dương.

Vượt ngoài cái chết, một người đã giác ngộ là không thể nghĩ bàn

Đoạn kinh văn nhấn mạnh rằng, một người đã giác ngộ vượt ra ngoài cái chết (không phải ‘sau khi chết’, vì điều này vẫn ngụ ý sự tồn tại của thời gian) đã vượt qua mọi cách nói về vị ấy. Rằng người ấy đã đi ra ngoài (‘thiết lập’ như mặt trời, hoặc biến mất đối với mục tiêu), vị ấy không tồn tại, hay người ấy đang ở trong trạng thái hạnh phúc vĩnh cửu? Một vị Bà la môn yêu cầu Đức Phật giải thích về điều này. Xin hãy cho tôi một lời giải thích tốt về điều này, thưa Thế Tôn, vì Pháp này được biết bởi Ngài. Đức Thế Tôn trả lời: “Không một biện pháp tồn tại nào cho một người đã đạt đến mục tiêu, Upasīva. Điều đó không còn tồn tại đối với người ấy mà người ta có thể nói về vị ấy. Khi tất cả các hiện tượng được loại bỏ, tất cả các phương tiện nói đều bị loại bỏ. Đó là không thể nghĩ bàn, thậm thâm vi diệu.” Khi một người đã giác ngộ thì không thể nói gì về cái gọi là chết hay sau khi chết. Bởi vì chết hay sau khi chết chỉ đề cập đến chúng sinh trong luân hồi sanh tử. Như Lai thoát ngoài vòng sanh tử nên đều đó là thậm thâm vi diệu không thể nghĩ bàn.

Tóm lại, quan niệm về Đức Phật theo truyền thống Nguyên Thủy là một đức Phật lịch sửĐức Phật đã hóa thành pháp thân. Hay là sự hiện thân của pháp. Ngài là bậc A-la-hán Chánh đẳng chánh giác, là Thế Tôn xứng đáng ca tụng, tán tháncúng dường. Khác biệt với truyền thống Đại Thừa, một Đức Phật lịch sử nhưng cũng là một vị Phật tiếp nối truyền thống mười phương chư Phật ba đời. Vị Phật trong vô lượng thiên bá ức Đức Phật, tùy theo sở nguyện, điều kiện để hóa hiện các thân tùy duyên hóa độ chúng sanh.

Ghi chú:

[1] S.V.437. Woodward. Vol.5, p. 370, See, Harcharan Singh Sobti, Nibbāna in Early Buddhism, EBL, Delhi, 2011, p. 122.

[2] Aggi-vacchagotta Sutta: Majjhima-nikāya I.486–488, trans. P.H.

[3] Common Buddhist Text: Guidance And Insight From The Buddha (Chief Editor: Venerable Brahmapundit), 2016.

Thích Trung Định

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7348)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4517)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4563)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7328)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2961)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12218)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3990)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3806)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4218)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3685)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5062)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6681)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4003)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4122)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5336)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3785)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4525)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3551)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3926)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4388)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5392)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3840)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3939)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3870)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4824)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4523)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4253)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3827)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4633)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4194)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6107)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4606)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4944)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4189)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4822)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5668)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3649)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4032)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4590)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5284)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3145)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4764)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4553)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4288)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4489)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4606)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7215)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5210)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 5004)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4594)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5618)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5269)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4159)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 6007)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4715)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4874)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5482)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5615)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5818)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
(Xem: 4996)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant