Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Quan Niệm Về Đức Phật Theo Đại Thừa Phật Giáo

18 Tháng Tư 202019:41(Xem: 4288)
Quan Niệm Về Đức Phật Theo Đại Thừa Phật Giáo

Quan Niệm Về Đức Phật Theo Đại Thừa Phật Giáo

Thích Trung Định

Đức Phật Người Dẫn Đường

Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài. Theo đó, Đức Phật vừa là một vị Phật lịch sử nhưng Ngài cũng là vị Phật từ vô lượng kiếp. Khi còn tại thế, Ngài là đấng toàn giác, toàn trí, hướng dẫn mọi người thăng hoa tri thứcđạo đức. Sau khi Phật diệt độ, nảy sanh nhiều quan niệm khác nhau về Ngài.

Ở thời Phật giáo Nguyên Thủy, khi sanh thân Phật không còn, người ta nghĩ Phật vẫn hiện hữu trong kinh tạng của Ngài lưu lại, gọi là giáo pháp Pháp thân. Quan niệm giáo pháp Pháp thân được Đại chúng bộ triển khai thành Tăng đoàn Pháp thân, nghĩa là Phật vẫn sống trong sinh hoạt của tập thể hòa hợp Tăng. Từ đó, mỗi người tin Phật, học Phật, thể hiện cuộc sống theo Phật thì Phật hiện hữu trong suy tư, trong việc làm của họ. Vì vậy có bao nhiêu người hướng tâm về Ngài, thì có bấy nhiêu Phật, dẫn đến hình thành tư tưởng thiên bá ức hóa thân Phật của Phật giáo Đại thừa. Chúng ta sẽ lần lượt bàn về những đặc tính của đức Phật như trong các bản kinh Đại Thừa mô tả về Ngài.

Biểu tượng và phẩm chất của Đức Phật

Theo quan điểm lập trường của Phật giáo Đại thừa, trong khi giải thích về các biểu tượng của Đức Phật, truyền thống này cho rằng Như Lai, từ việc trải nghiệm các pháp nhiễm ô cho đến khi đạt được sự thức tỉnh hoàn hảo, Ngài được tôn xưng là tối thượng, “vô thượng tôn”, và tối thắng trong các pháp. Đây là lý do tại sao đức Phật được biết đến với cái tên ‘Thiện thệ’, khéo vượt qua.

Như lai (Tathāgata), Thế Tôn, đã dạy về sự tu tập thiền định để nhận thấy tánh không của vạn pháp. Hành giả nên chuyên chú nhất tâm trong thiền định để làm chủ các nhận thứccảm giác. Bốn cấp độ thiền định, tu tập lòng từ bi nhân ái để làm chủ cảm xúc và phát triển trí tuệ một cách hiệu quả nhất. Mười hai liên kết của lòng nhân ái và từ bi làm lợi ích của chúng sinh là một đặc tính thù thắng. Những gì Đức Phật đã chứng minh là không thể thay đổi. vì ngài là người khám phá ra chân lý và trình bày chân lý ấy. Đây là lý do tại sao Ngài được gọi là Như Lai, ‘đến và đi như vậy’. Hơn nữa, Đức Phật trước tiên tiến hành từ giai đoạn chuẩn bị và sau đó đạt được sự thức tỉnh hoàn hảo vượt trội. Tại sao Ngài được gọi là Như Lai? Khi Ngài đạt được những phẩm chất tinh tế, kỳ diệu, xác thực. Ngài được biết đến như một vị A-la-hán, một ‘Người xứng đáng’, được tôn thờ bởi tất cả  chư thiênloài người. Ngài được biết đến như một vị A-la-hán Chánh đẳng chánh giác.

Khi Ngài thức tỉnh với hai loại thực tại, đó là: thực tế thông thường và hiện thực tối thượng. Ngài được biết đến như một vị Phật đã thức tỉnh hoàn hảo. Khi Ngài đã hoàn thiện kỷ luật đạo đức của mình, và khi Ngài sở hữu ba loại kiến thức (thiên nhãn minh, túc mạng minhlậu tận minh), Ngài được biết đến là người hoàn thiện tròn đầy về đức hạnhtrí tuệ. Cho nên thường gọi Chư Phật lưỡng túc tôn. Lưỡng túc là hai chân đó là từ bitrí tuệ đủ đầy. Và vì vậy, Ngài thực sự sẽ không bao giờ được sinh ra một lần nữa dưới bất kỳ hình thức tồn tại nào. Ngài được biết đến với cái tên Sugata.

Đức Phậtkiến thức đầy đủ về hai thế giới, đó là thế giới tâm linhthế giới hiện thực. Ngài được gọi là ‘người biết đến thế giới’. Ngài rất thành thạo các kỹ năng cần thiết để rèn luyện  kỷ luật đạo đức cho chúng sinh. Ngài được biết đến như một bậc Thầy của nhân loại. Khi vị ấy có thể làm giảm thiểu nổi khổ đau cho chúng sanh, và khéo léo dạy cho họ cách thoát khỏi đau khổ để đạt đến niềm hạnh phúc, Ngài được gọi là “bậc thầy của trời người”. Ngài hiểu tất cả các hiện tượng và tất cả hành động, được gọi là Đức Phật. Người đã thức tỉnh. Hơn nữa, vì Ngài đã đánh bại bốn loại Māra, nên được gọi là Bhagavā, Thế Tôn. Đây là phẩm chất tuyệt diệu của đức Phật.

Ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp vô hạn của Như Lai

 Theo quan điểm của Đại thừa Phật giáo, đức Như Lai có phẩm chất tốt đẹp vô hạn. Ngoài sự mô tả về 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp, Đức Phật còn có 18 pháp bất cộng. Tức có 18 đặc tính riêng chỉ Đức Phật sở hữu mà thôi. Đoạn kinh văn được đưa ra đó là khi Nữ hoàng Śrīmālā nhận một lá thư được gửi bởi cha mẹ hoàng gia của mình, ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp vô hạn của Đức Phật. Sau đó, cô ấy đã nói những câu này với người đưa tin, Chandra: Tôi vừa nghe từ ‘Phật’, một từ chưa từng nghe thấy trên thế giới này. Nếu những gì được nói về Ngài ấy là đúng, tôi nên phục vụcúng dường Ngài, Đức Phật, Thế Tôn, người xuất hiện vì lợi ích cho tất cả số đông, vì hạnh phúc an lạc cho chư thiênloài người.

Ngay khi cô  nói những lời như vậy, Đức Phật xuất hiện trên bầu trời ngay trên cô, tỏa ra ánh sáng hoàn toàn tinh khiết, biểu hiện một cơ thể không thể nghĩ bàn. Nữ hoàng Śrīmālā và đoàn tùy tùng của mình cúi xuống trước Đức Phật, với người đứng đầu của họ dưới chân mình, và ca ngợi với câu cảm thán: “Không có gì trên thế giới có thể so sánh với cơ thể kỳ diệu của Như Lai. Đó là vô song, không thể tưởng tượng.” Đây là lý do tại sao chúng ta tán thán, ca tụng Ngài với hình thức của Như Lai là vô hạn, như là trí tuệgiáo pháp của Ngài là vĩnh cửu, và vì vậy tôi phải đi đến để đảnh lễ cúng dường. Ngài và giáo pháp là chỗ quay trở về để nương tựa, bảo vệ chúng tôi. Tâm Ngài rộng lớn, từ bi bao dung đối với tất cả chúng sinh như cha mẹ thương con, Phật thương chúng sinh vậy.

Bản chất của sự thức tỉnh hoàn hảo vượt trội

            Đức Phật có đầy đủ sự thức tỉnh hoàn hảo vượt trội. Phật nghĩa là tỉnh thức. Bậc thức giả. Một đoạn kinh văn miêu tả sự thức tỉnh của một vị Phật không phải là chứng đắc của bất cứ điều gì - vì nó được trải nghiệm từ một sự buông bỏ chấp trước sâu sắc mà thấy sự bất khả tư nghị, không thể nghĩ bàn. Cái gì là sự thức tỉnh hoàn hảo, hoàn hảo của Như Lai? Tôn giả Tu Bồ Đề trả lời, “Chắc chắn là không, Thế Tôn. Không tồn tại hiện tượng nào, Thế Tôn, đó là sự thức tỉnh hoàn hảo, vô song của Như Lai. Chính xác, Subhūti, chính xác. Thậm chí không thể xác định được hoặc không tìm thấy hiện tượng rất nhỏ nào tồn tại. Đây là cách sử dụng cụm từ vượt trội, thức tỉnh hoàn hảo.”

Bản chất của Đức Phật theo Phật giáo Nguyên thủy nhìn nhận Đức Phật lịch sử như một con người vừa thức tỉnh, một con người đạt đến mục tiêu cuối cùng, Mahāyāna và Vajrayāna có xu hướng xem Ngài như một biểu hiện trần thế của một vị Phật trần thế đã thức tỉnh vô số chúng sanh, là hiện thân của thực tại cuối cùng vượt không gianthời gian.

Khi chúng ta chứng kiến ​​Đức Phật đi vào Niết-bàn, tất cả chúng ta chìm vào một đại dương đau khổ, vượt qua đau buồn và đau khổ như một con bê mất mẹ. Bây giờ không có ai giúp đỡ chúng ta, giống như một người bị áp bức bởi bệnh tật. Ai, bởi vì người ấy không có bác sĩ để tham khảo ý kiến, làm theo ý tưởng của mình và ăn những thứ mà anh ta không nên ăn. Chúng sinh bị ảnh hưởng bởi căn bệnh phiền não, và liên tục bị tổn hại bởi những quan điểm sai lầm. Giống như người dân ở một đất nước không có vua khi bị nạn đói, chúng ta cũng vậy, không còn nơi trú ẩn và không có sự nuôi dưỡng về Phật pháp. Khi chúng ta nghe rằng Đức Phật đang đi vào Niết bàn, tâm trí của chúng ta trở nên rối loạnbối rối, giống như một người nào đó bị mất phương hướng và luẩn quẩn trong một trận động đất lớn. Khi Ngài bước vào Niết-bàn, mặt trời của Đức Phật sẽ ở trên trái đất và nước pháp sẽ cạn kiệt. Chúng ta chắc chắn sẽ chết. Khi Như Lai nhập vào niết bàn, nó là nỗi đau khổ đối với chúng sinh. Giống như con trai của một chủ nhà khi nghe rằng Cha và mẹ đã chết.

Nhưng kỳ thực, theo quan điểm của Đại thừa Phật giáo, Đức Phật không thực sự biến mất khi ngài qua đời trên trái đất này. Một đoạn kinh miêu tả Đức Phật thực sự vẫn không thay đổi. Sự ra đi của Ngài chỉ là một sự xuất hiện sai lệch.

Đức Phật nói với Kāśyapa: “Giống như khi mọi người không thấy mặt trăng xuất hiện, tất cả họ đều nói rằng mặt trăng đã biến mất, và hình thành một khái niệm về sự biến mất của nó. Tuy nhiên, mặt trăng tự nhiên không thực sự biến mất. Người dân ở nơi khác thì nói rằng “Mặt trăng đã xuất hiện”, nhưng mặt trăng bản chất của nó không thực sự xuất hiện. Tại sao lại thế này? Mặt trăng không nhìn thấy được vì nó bị che khuất bởi Núi Tu di (Sumeru). Mặt trăng luôn luôn hiện diện, nó không hề xuất hiện hay biến mất. Như Lai, vị Phật thức tỉnh hoàn hảo cũng giống vậy. Xuất hiện trong hệ thống hàng tỷ thế giới. Ngài xuất hiện trong thế giới này như một con người, để mọi người nói, “Ngài thị hiện trong thế giới này.” Ngài xuất hiệnnhập Niết bàn trong thế giới này, nhưng Như Lai tự nhiên không thực sự nhập vào Niết-bàn. Chúng sinh đều nói Như Lai đã nhập vào Niết-bàn. Thực sự biến mất, như người con trai trong gia đình tốt mất cha mẹ. Như Lai tự nhiên không thực sự xuất hiện hay biến mất. Ngài thị hiện và biến mất để phương tiện dạy bảo chúng sinh.”

Một đoạn kinh khác tiếp tục trình bày. “Nó là như thế này, Thiện Nam tử, khi mặt trăng tròn ở một nơi, nó được xem như một nửa mặt trăng ở một nơi khác. Một nửa mặt trăng ở một nơi được coi là trăng tròn ở một nơi khác. Khi mọi người ở đây, trên thế giới nhìn thấy mặt trăng lưỡi liềm, tất cả họ đều nói: “Đó là ngày đầu tiên của tháng” và hình thành một khái niệm về mặt trăng mới. Khi họ nhìn thấy trăng tròn, họ nói: “Đó là ngày thứ mười lăm của tháng”. Mặt trăng tự nhiên không thực sự tròn hay khuyết. Nó chỉ xuất hiện suy yếu dần hoặc tròn chỉ vì ảnh hưởng của núi Tu di. Sự xuất hiện của Như Lai trong thế giới này khi còn là một đứa trẻ sơ sinh hoặc biểu hiện của việc đi vào Niết-bàn cũng giống như vậy. Khi xuất hiện như một đứa trẻ sơ sinh, Ngài giống như mặt trăng mới vào ngày đầu tiên của tháng. Mọi người đều nói rằng đứa trẻ vừa chào đời. Thực hiện bảy bước chân, giống như mặt trăng vào ngày thứ hai. Ngài lớn lên ở thời niên thiếu học tập, giống như mặt trăng vào ngày thứ ba…Từ giả cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con thơ, như mặt trăng vào ngày thứ tám. Ngài thành đạo, tỏa ra ánh sáng vĩ đại, kỳ diệu của trí tuệ, có thể tiêu diệt những đội quân vô lượng của Māra, như trăng tròn vào ngày mười lăm. Sau đó, thể hiện vẻ đẹp của chính mình thông qua ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp của một vị Phật, và biểu lộ lối vào Niết-bàn, giống như mặt trăng bị che khuất.”

Nhiều bản kinh Đại thừa mô tả như vậy để chỉ rõ Như Lai không hề xuất hiện hay biến mất trên cỏi đời này. Sự xuất hiện và biến mất chỉ là tướng trạng, chứ thực thể của Như Lai thì bất sinh bất diệt.

Sự hiện diện liên tục của Đức PhậtNhư Lai thọ lượng

Phật giáo Đại thừa cho rằng Đức Phật thọ mạng vô lượng. Trong một đoạn kinh Pháp hoa (Lotus Stra), phẩm Như Lai thọ lượng, Đức Phật đã tuyên bố rằng việc Ngài đạt được Phật quả không phải là một sự kiện gần đây, nhưng đã xảy ra vô số kiếp trước, kể từ khi Ngài xuất hiện trong thế giới của chúng ta (và những nơi khác), nhiều lần, dưới hình dạng những vị Phật trần gian dạy Pháp và sau đó dường như biến mất vào Niết-bàn cuối cùng. Ngài chỉ để lại ấn tượng này để chúng sinh không trở nên lười biếng, ỷ lại rằng Ngài luôn ở gần bên để giúp đỡ họ. Sự nhập diệt chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sinh thấy được cuộc đờivô thường để tấn tu đạo nghiệp. Còn thực tế Như Lai bất sanh bất diệt, thọ mạng vô lượng không thể nghĩ bàn.[1]

Tam thân Phật

Đây là một khái niệm khá đặc thù của Phật giáo Đại thừa khi lý giải về Đức Phật. Tam thân (trikāya) là một thuật ngữ được dùng để chỉ ba loại thân của một vị Phật. Quan điểm này xuất phát từ tư tưởng cho rằng Phật-như một nhân vật đã xuất hiện trên thế gian để hoằng hoá, tiếp độ chúng sinh-chính là biểu hiện của cái Tuyệt đối, của Chân như và Phật có khi hiện thân thành nhiều hình tướng khác nhau chỉ vì lợi ích của chúng sinh. Quan niệm Tam thân Phật được nêu ra nhằm nói lên quan điểm đó.

Pháp thân (dharmakāya), là thể tính thật sự của Phật, đồng nghĩa với Chân như, là thể của vũ trụ. Pháp thân là thể mà Phật và chúng sinh đều có chung. Pháp thân cũng chính là Pháp (sa. dharma), là quy luật vận hành trong vũ trụ, là giáo pháp do đức Phật truyền dạy. Phật xuất hiện trên Trái Đất, với nhân trạng, với mục đích cứu độ con người. Pháp thân được xem chính là Phật pháp (sa. buddha-dharma) như Phật Thích-ca giảng dạy trong thời còn tại thế. Sau này người ta mới nói đến hai thân kia. Pháp thân được xem là thường hằng, vô tướng, nhất nguyên, là thể tính chung của các vị Phật, là dạng tồn tại thật sự của chư Phật. Pháp thân có nhiều tên gọi khác nhau, tuỳ trường hợp sử dụng. Có lúc người ta xem nó là thể tính của mọi sự, là Pháp giới (sa. dharmadhātu, dharmatā), là Chân như (sa. tathatā, bhūtatathatā), là tính Không (sa. śūnyatā), A-lại-da thức (sa. ālayavijñāna), hay xem nó như là Phật, Phật tính (sa. buddhatā), là Như Lai tạng (sa. tathāgatagarbha). Trong nhiều trường phái, người ta xem Pháp thân là thể trừu tượng không có nhân trạng, có trường phái khác lại xem Pháp thân hầu như có nhân trạng. Đạt trí huệ siêu việt đồng nghĩa với sự trực chứng được Pháp thân.

Báo thân (saṃbhogakāya), cũng được dịch là Thụ dụng thân, “thân của sự thụ hưởng công đức”: chỉ thân Phật xuất hiện trong các Tịnh độ. Báo thân là thân do thiện nghiệp và sự giác ngộ của các Bồ-tát mà hoá hiện cho thấy. Cũng vì vậy mà có lúc được gọi là Thụ dụng thân, là thân hưởng thụ được qua những thiện nghiệp đã tạo. Báo thân thường mang Ba mươi hai tướng tốt (sa. dvātriṃśadvara-lakṣaṇa) và tám mươi vẻ đẹp của một vị Phật và chỉ Bồ Tát mới thấy được trong giai đoạn cuối cùng của Thập địa (sa. daśabhūmi). Người ta hay trình bày Báo thân Phật lúc ngồi thiền định và lúc giảng pháp Đại thừa. Các trường phái thuộc Tịnh độ tông cũng tin rằng Báo thân Phật thường xuất hiện trong các Tịnh độ.

Ứng thân (nirmāṇakāya), cũng được gọi là Ứng hoá thân hoặc Hoá thân, là thân Phật và Bồ Tát hiện diện trên Trái Đất. Ứng thân do Báo thân chiếu hiện, dựa trên lòng từ bi và có mục đích giáo hoá chúng sinh. Như thân người, Ứng thân chịu mọi đau khổ của già chết bệnh tật, nhưng Ứng thânthần thông như thiên nhãn thôngthiên nhĩ thông. Sau khi chết, Ứng thân tự tiêu diệt.

Ba thân Phật nói ở trên có lẽ đầu tiên được ngài Vô Trước (sa. asaṅga) trình bày rõ nhất, xuất phát từ quan điểm của Đại chúng bộ (sa. mahāsāṅghika) và về sau được Đại thừa tiếp nhận. Đáng chú ý nhất là quan điểm Pháp thân nhấn mạnh đến thể tính tuyệt đối của một vị Phật và không chú trọng lắm đến Ứng thân của vị Phật lịch sử. Như thế, Phật là thể tính thanh tịnh của toàn vũ trụ, thường hằng, toàn tri. Các vị Phật xuất hiện trên Trái Đất chính là hiện thân của Pháp thân, vì lòng từ bi mà đến với con người, vì lợi ích của tất cả chúng sinh.

Pháp thân phát sinh từ những phẩm chất của con đường cao quý. Một đoạn kinh văn cho thấy Pháp thân phát sinh từ những phẩm chất khác nhau của con đường đến Phật quả. ‘Thân thể của Như Lai, này các Tỷ kheo, là pháp thân. Nó phát sinh từ sự rộng lượng, kỷ luật đạo đức, sự tập trung thiền định, trí tuệ, sự giải thoát, sự hiểu biết và nhìn thấy sự giải thoát. Nó phát sinh từ lòng tốt yêu thương, lòng trắc ẩn, niềm vui đồng cảm và sự bình tĩnh. Nó phát sinh từ sự rộng lượng, tự kiểm soátkiềm chế. Nó phát sinh từ sự kiên nhẫn, dịu dàng Nó phát sinh từ những gốc rễ lành mạnh được tạo ra bởi ứng dụng năng lượng ổn định. Nó phát sinh từ sự hấp thụ thiền định, giải phóng, tập trung thiền địnhđạt được thiền định. Phát sinh từ sự học hỏi, trí tuệ và kỹ năng về phương tiện. Nó phát sinh từ ba mươi bảy sự thực hành giúp người ta đạt được sự thức tỉnh. Nó phát sinh từ thiền chỉthiền quán. Nó phát sinh từ mười năng lực, từ bốn vô sở úy và từ mười tám phẩm chất độc đáo của một vị Phật. Nó phát sinh từ tất cả những sự hoàn hảo. Nó phát sinh từ kiến thức cao hơn và kiến thức trực tiếp. Nó phát sinh khi một người phát triển tất cả các phẩm chất lành mạnh. Nó phát sinh từ sự thật. Nó phát sinh từ thực tế. Nó phát sinh từ sự cảnh giác. Thân thể của Như Lai, này các tỷ kheo, phát sinh từ nghiệp thanh tịnh vô hạn. Đây là điều các người nên khao khát. Để thoát khỏi mọi sinh mệnh của bệnh tật của mọi phiền não, các người nên quyết tâm đạt được sự vượt qua, thức tỉnh hoàn hảo. Licchavi Vimalakīrti đã dạy Pháp theo cách này cho những người đặc biệt tìm hiểu về căn bệnh của ông ấy, và hàng trăm ngàn chúng sinh quyết tâm đạt được sự thức tỉnh hoàn hảo, vượt trội.[2]

            Đức Phật và các vị Bồ tát tiên tiến biểu lộ dưới vô số hình thức. Đức Phật xuất hiện dưới bất kỳ hình thức nào sẽ giúp đưa chúng sinh đến với Pháp và giúp họ hướng tới sự giải thoát. Ta thể hiện bản thân theo nhiều cách khác nhau để giải thoát tất cả các loại chúng sinh khác nhau. Ta có thể xuất hiện với một cơ thể nam giới. ta có thể xuất hiện dưới thân nữ. Ta có thể xuất hiện dưới thân vị trời hay một vị thần. Ta có thể xuất hiện với cơ thể của một con quỷ. Ta có thể xuất hiện như một ngọn núi, một khu rừng, một con suối, một dòng sông, một hồ nước, một đài phun nước hoặc một cái giếng để giúp mọi ngườigiải phóng hoàn toàn tất cả chúng. Ta có thể xuất hiện cùng với cơ thể của cả một Śakra vua của loài trời. Ta có thể xuất hiện cùng với cơ thể của cả một Brahmā. Ta có thể xuất hiện cùng với cơ thể của một vị chuyển luân thánh vương.  Ta có thể xuất hiện dưới hình thức của một gia đình. Có thể xuất hiện với cơ thể của vua của một quốc gia cụ thể.Ta có thể xuất hiện với cơ thể của một vị thủ tướng. Ta có thể xuất hiện với cơ thể của một Tỷ - kheo, Tỷ – kheo ni, một cư sĩ, một nữ cư sĩ, v.v. Ta có thể xuất hiện với thân của một vị A la hán, một vị Phật độc giác, một vị Bồ tát. Và cứ thế, để đưa chúng sinh trưởng thành. Tôi không chỉ xuất hiện với cơ thể của một vị Phật.[3]

Theo tinh thần Đại thừa, Đức Phật Thích Ca là một ứng thânTa bà, để khai thị cho chúng sanh con đường vào Phật tri kiến. Sau khi ứng thân Phật Niết bàn, những Tỳ kheo mang hình thức giống Phật và truyền bá chánh pháp, tiêu biểu cho Phật tại trần gian, gọi là hóa Phật.

Mỗi vị Tăng suy nghĩ về Phật, thì hiện hữu Phật; hóa Phật là Phật do chúng ta hình dung, nghĩ tưởng mà có. Từ góc độ ấy, Phật giáo Đại thừa đưa ra quan niệm Báo thân Phật hay thân phước đức trí tuệ của Phật. Báo thân Phật không phải là một thân lạ lùng ở nơi xa xôi nào, nhưng tồn tại ngay trong sanh thân Ngài, được cấu tạo từ sự kết hợp trí tuệ và những việc làm thánh thiện, lợi ích của Ngài đối với đời.

Thật vậy, trên bước đường hoằng hóa độ sanh, với tri kiến thấy đúng như thật, Phật hiểu rõ khả năng, hoàn cảnh của từng người và tùy theo đó mà chỉ dạy; họ đều thăng hoa trên đường đạo hạnh, tăng trưởng phước lạc. Với nhân cách toàn thiện, trí tuệ toàn bích và đạo đức toàn mỹ, Đức Phật dễ dàng thành công trong việc giáo hóa. Báo thân hay hành vi đạo đức, không chút lỗi lầmtrí tuệ siêu tuyệt của Phật đã ảnh hưởng, tác động cho người, xây dựng thành một tập thể xuất giatại gia đạo đức, sáng suốt. Hướng dẫn và dung hóa một giáo đoàn gồm mười hai ngàn Tỳ kheo thuộc nhiều trình độ khác nhau, thành phần phức tạp, không phải là điều đơn giản. Trong tám mươi năm trụ thế, Đức Phật cảm hóa từ hàng vua chúa quyền quý, người giàu sang, học thức, cho đến người thứ dân nghèo khổ, thất học, từ người hiền lành đến kẻ sát nhân; tất cả đều được chuyển đổi, thăng tiến tốt đẹp.

Từ Báo thân viên mãn, đầy đủ phước đức, trí tuệ, Đức Phật dùng vốn quý giá ấy để cấu tạo một thân thứ ba gọi là Pháp thân. Pháp thân không phải là cái gì siêu hình, trừu tượng ở trong hư không. Bằng trí tuệ của bậc Chánh Biến Tri, Đức Phật biết rõ và vận dụng được nguyên lý tạo nên con ngườithế giới. Từ đó, mọi vật, mọi hiện tượng trong trời đất, mọi việc của các loài đều không chướng ngại đối với Ngài. Và hơn thế nữa, Đức Phật chi phối toàn bộ các pháp, sử dụng chúng một cách tự tại; các pháp trở thành thân của Ngài. Đức Phật sử dụng Pháp thân chuyển hóa xã hội đương thời, lúc ấy sanh thân Phật trở thành Pháp thân, hay được coi là Pháp thân.

Chúng ta cũng có Pháp thân, nhưng vì không có Báo thân viên mãn, tức không đầy đủ trí tuệ, đạo đức nên Pháp thân không hoạt động được, kinh gọi là Như Lai tại triền; ví như vàng bạc có trong quặng mỏ, nhưng không biết khai thác, không dùng được.

Đức Phật cũng mang thân tứ đại ngũ uẩn như mọi người, nhưng Ngài biết dùng sanh thân ấy để tạo thành Pháp thânBáo thân và đạt quả vị Vô thượng Đẳng giác. Trong khi chúng sanh phát triển nghiệp và phiền não, đời đời kiếp kiếp trôi lăn trong sanh tử khổ đau.

Trên nền tảng cuộc sống bình thường của sanh thân, Đức Phật phát triển tinh thần, tăng trưởng trí tuệđạo đức để nuôi lớn Báo thân. Và từ tinh thần này hội nhập lại sanh thân, tác động đến mọi người, mọi việc. Nói chung là Ngài điều động được các pháp một cách tự tại, tức sử dụng được Pháp thân.

Ngoài ra, Phật giáo Đại thừa đặt nặng vấn đề tri thứcđạo đức nên lấy Báo thân viên mãn, hay phước đức trí tuệ làm thân. Đây là điểm quan trọng khác biệt giữa Phật và chúng sanh, vì không tu đầy đủ hạnh Bồ tát và tâm đại bi, nên chúng sanh không thể nào đạt quả vị Phật. Sau cùng, Đại thừa kết hợp giáo pháp Pháp thân của quan niệm Nguyên thủy với Tăng đoàn Pháp thân của thời bộ phái, chuyển đổi thành thanh tịnh Pháp thân. Như vậy, danh từ Pháp thân tuy giống nhau, nhưng tư tưởng cốt lõi bên trong khác nhau.

Theo tinh thần Đại thừa, ngày nay sanh thân Phật vắng bóng trên cuộc đời, tri thứcđạo hạnh của Ngài đã đầu tư cho loài người vẫn là mô hình kiểu mẫu hướng dẫn cho những người đồng hạnh đồng nguyện với Ngài trên khắp năm châu. Sanh thân không còn hiện hữuPháp thân vẫn thường trụ vĩnh hằng, được vô số tâm hồn lớn nối tiếp, tạo thành mạng mạch Phật giáo lưu truyền, lợi lạc cho chúng hữu tình qua suốt hai mươi lăm thế kỷ.

            Phật tính

Phật tính (buddhatā, buddha-svabhāva) là thể bất sinh bất diệt của mọi loài theo quan điểm Đại thừa. Theo đó, mọi loài đều có thể đạt được giác ngộtrở thành một vị Phật, không bị đời sống hiện tại hạn chế. Có nhiều quan điểm khác nhau về Phật tính, người ta tranh cãi liệu tất cả mọi loài đều có Phật tính hay không, liệu thiên nhiên vô sinh vô tri như đất đá có Phật tính hay không.

Tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Nghĩa là được là chứa hoặc là một Tathāgata-garbha, có nghĩa là cái ‘phôi thai’ hoặc ‘tử cung’ của một Tathāgata, có nghĩa là họ có tiềm năng rạng ngời cho Phật quả. Nó là hoàn toàn trong sángthanh tịnh, nhưng do phiền não, che phủ bản chất của tâm. Trong hầu hết các trường hợp trong này, Tathāgata-garbha được dịch đầy đủ ‘Phật tánh’.                                                

Sự khác biệt giữa Nguyên thủyĐại thừaquan điểm về Phật tínhthường hằng trong mọi loài hay không. Tiểu thừa hầu như không nhắc đến Phật tính. Đại thừa xem đạt Phật quảmục đích cao nhất, đó là sự thể hiện Phật tính nằm sẵn trong mọi chúng sinh, thông qua những phép tu học nhất định.

Theo Thiền tông thì mỗi chúng sinh đều có Phật tính, nhưng nói chung thì không tự biết và cũng không sống với sự tự hiểu biết này như một bậc giác ngộ, một vị Phật. Sự thức tỉnh này và sự sinh diệt, xảy ra từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc nọ, là biểu hiện của sự đồng nhất với Phật tính và cũng chính là mục đích của Thiền.

Phật tính, cũng đồng nghĩa với Pháp tính (dharmatā), chính là cái mà người ta gọi trong Đại thừatính Không (śūnyatā). Một thuật ngữ chỉ Phật tính khác là Bản lai thành Phật, nhưng ít phổ biến. Chủ ý có nghĩa là Phật tínhmọi nơi, tất cả chúng sinh xưa nay vốn có Phật tính. Khái niệm này thường thấy trong các bộ kinh và luận của Đại thừa, như trong Đại thừa khởi tín luậnViên Giác kinh.

Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ. Bởi Phật tínhbản chất tinh khiếtgiác ngộ thực chất của chúng tachúng ta có thể hoàn thiệnvượt qua bất cứ ô nhiễm nào. Đức Phật đã chia sẻ sự hiểu biết sâu sắc của Ngài về điều này, không chỉ công nhận thực tế Phật tính tồn tại trong tất cả chúng sinh, mà còn dẫn dắt chúng ta để đánh thức khả năng vô hạn và bẩm sinh này cho tới khi chúng ta đạt được sự tỉnh giác trọn vẹn về Phật tính của chính mình, và tự chúng ta trở thành những vị Phật giác ngộ.

Điều quan trọng cần nhận thức rằng, Phật tính không phải là vài điều chúng ta tự tưởng tượng hay tạo ra. Phật tính là sự tồn tại vốn có trong mỗi chúng sinh, và Đức Phật dạy chúng ta phương pháp từng bước với mục đích để đánh thức Phật tính luôn hiện diện trong chúng ta bằng cách chỉ dẫn các cá nhân với những mức độ phát triển khác nhau.[4]

Sự thừa nhận tất cả chúng sinh đều có Phật tính theo quan điểm Phật giáo Đại thừa được thể hiện rõ trong tư tưởng kinh Pháp Hoa. Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tính. Như Lai ra đời là để khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật chi tri kiến. Câu chuyện Long nữ thành Phật, Đề-bà-đạt-đa dạng Nhất xiển đề cũng được thọ ký thành Phật để khẳng định Phật tính luôn có trong mỗi chúng sanh. Khái niệm Phật tại triền và Phật xuất triền là đề cập đến Phật tính hiển lộ hay đang bị vô minh che lấp.

Tóm lạiPhật giáo Nguyên thủy quan niệm Đức PhậtSanh thânPháp thân. Phật giáo trong thời kỳ bộ phái lại chủ trương Báo thânỨng thân. Sau đó, Phật giáo Đại thừa kết hợp hai tư tưởng này lại để hình thành quan niệm tam thân PhậtỨng hóa thân, Báo thânPháp thân. Nghĩa là quan niệm sanh thân của Phật giáo Nguyên thủyPhật giáo thời bộ phái giống nhau, vẫn giữ nguyên, nhưng mang tên khác là Ứng hóa thân. Ứng thân chỉ cho Phật Thích Ca, hóa thân là những vị gìn giữ chánh pháp Phật tồn tại trên thế gian.

Ghi chú:

 [1] Common Buddhist Text: Guidance And Insight From The Buddha (Chief Editor: Venerable Brahmapundit), 2016. 

[2] Vimalakīrti-nirdeśa Sūtra, ch. 2, sec.12, trans. from Sanskrit by D.S.

[3] Kṣitigarbha Bodhisattva Pūrva-praṇidhāna Sūtra, Taishō vol.13, text 412, ch.2, p.779b18–b26, trans. D.S.

 [4] Kenting Tai Situpa, Awakening The Sleeping Buddha, Nguyên Toàn dịch , Nhà xuất bản Tôn Giáo - Hà Nội 2010, https://thuvienhoasen.org/a7966/phat-tinh.

 

Văn hóa Phật giáo số 342

Thích Trung Định

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2671)
Giá trị của tâm là sự thương yêuchân thực. Nếu một người mà tâm luôn tràn ngập tình thương đối với mọi người,
(Xem: 6147)
Cuộc sống hiện đại đưa đến nhiều vấn đề làm cho chúng ta phiền tâm mệt trí, thân tâm đều nặng nề.
(Xem: 3063)
Tầm quan trọng của một người là tính sáng tạo của tâm thức. Khi chúng ta đối xử với nhau như những người anh chị em, thì nó sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc.
(Xem: 3110)
Nếu tỉnh thức, bạn có thể tự đặt mọi câu hỏi. Năng lực của trí tuệ sẽ giúp bạn tìm thấy câu trả lời cho mọi vấn đề mình đang gặp mỗi ngày.
(Xem: 3312)
Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê.
(Xem: 3245)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
(Xem: 3306)
Thịnh suy nào cũng không quan trọng bằng nội tâm ta có dính mắc hay không, vì dính mắc đó là nguồn gốc luân hồi.
(Xem: 4562)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 2737)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 5218)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 3875)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 3847)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 3211)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 4143)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 5050)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 3519)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 6749)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 3970)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 3225)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 3106)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 2967)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 5870)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 4638)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 3502)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 2902)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 3314)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 4431)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 5725)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 6642)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 3729)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 4541)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 4614)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 3978)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 3411)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 4633)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 6060)
Nhiều Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả.
(Xem: 5848)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 3641)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 4692)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 4463)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 4532)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 4273)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 4601)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 8223)
Ấn-độ là một bán đảo lớn ở phía Nam Châu Á. Phía Đông-Nam giáp với Ấn-độ dương (Indian Ocean), phía Tây-Nam giáp với biển Á-rập ( Arabian Sea).
(Xem: 3927)
Nguyên bản: The Inner Structure, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D., Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5726)
Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.
(Xem: 5208)
Căn Bản Hành Thiền - Bình Anson biên dịch 2018
(Xem: 6853)
Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh ...
(Xem: 6182)
Ba địa mỗi địa mười, Năm phiền não, năm kiến, Năm xúc, năm căn, pháp, Sáu: sáu thân tương ưng.
(Xem: 5998)
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại;thuộc nội phần hay ngoại phần, thô hay tế, hạ liệt hay thắng diệu, xa hay gần, mà dồn chung lại, tổng hợp thành một khối. Gọi chung là sắc uẩn.
(Xem: 5808)
Kính lễ Nhất thiết trí, Vầng Phật nhật vô cấu, Lời sáng phá tâm ám Nơi nhân thiên, ác thú.
(Xem: 6300)
Trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.
(Xem: 6792)
Suốt kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi là người thuyết pháp chính, Đức Phật chỉ ấn khả và thọ ký...
(Xem: 4978)
An cư” là từ không còn xa lạ đối với tín đồ Phật giáo; tuy nó không có nghĩa “an cư lạc nghiệp” của đạo Nho, nhưng khía cạnh nào đó, “lạc nghiệp” mang nghĩa...
(Xem: 5575)
Trung luận, còn gọi là Trung quán luận, bốn quyển, Bồ-tát Long Thọ trước tác kệ tụng, ngài Thanh Mục làm Thích luận, được dịch ra chữ Hán ...
(Xem: 6397)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào?
(Xem: 3794)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
(Xem: 5426)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10476)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 6078)
Cúng dườngnuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant